Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và
phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt
là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có
nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song
xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của
từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải
tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội
nhập quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển.
Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững,
Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực
giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh
nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành
yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập
để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định,
đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát
triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” [31, tr.102].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy
nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh
2
tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất
nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò
to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và
ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức
và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế,
đặc biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng
kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều
tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực
và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ
còn chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại
lực còn lúng túng, thiếu chủ động
Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước
những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là:
Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước.
Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập
quốc tế ở nước ta.
165 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN KIM PHƯỢNG
nhµ níc víi viÖc ph¸t huy néi lùc
vµ ngo¹i lùc trong héi nhËp quèc tÕ
ë ViÖt Nam hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THÀNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập.
Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã
công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa
có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Kim Phượng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và vai trò của
chúng trong sự phát triển đất nước 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và những giải
pháp nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội
lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay 12
1.3. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu và một số định
hướng mà luận án tiếp tục phải thực hiện 22
Chương 2: TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC, NGOẠI LỰC TRONG HỘI
NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 25
2.1. Nội lực, ngoại lực và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực, ngoại
lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 25
2.2. Sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay 39
2.3. Những biểu hiện chủ yếu về vai trò của Nhà nước đối với việc
phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay 49
Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 60
3.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam 60
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực
và ngoại lực thời kỳ hội nhập hiện nay 99
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 118
4.1. Một số quan điểm có tính nguyên tắc đối với Nhà nước trong
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay 118
4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Nhà nước đối
với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay 122
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
EC : Ủy ban châu Âu
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp
FPI : Vốn đầu tư gián tiếp
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HDI : Chỉ số phát triển con người
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
NAFTA : Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mĩ
ODA : Vỗn hỗ trợ phát triển chính thức
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
WB : Ngân hàng thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và
phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt
là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có
nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song
xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của
từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải
tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội
nhập quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển.
Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững,
Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực
giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh
nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành
yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập
để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định,
đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát
triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” [31, tr.102].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy
nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh
2tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất
nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò
to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và
ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức
và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế,
đặc biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng
kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều
tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực
và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ
còn chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại
lực còn lúng túng, thiếu chủ động…
Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước
những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là:
Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước.
Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập
quốc tế ở nước ta.
Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự
phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động
với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ
phân phối còn nhiều bất hợp lý” [31, tr.17]. Việc khai thác, sử dụng nội lực và
ngoại lực chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy
3hoại môi trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực…
Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập
quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn,
thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn
ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây
mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự
bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các
quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ
mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng;... Khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển
trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc
giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài… Tình hình đó ảnh hưởng lớn
đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển
đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Những hạn chế, thách thức trên đều là những vấn đề thời sự cấp bách đã
và đang trở thành lực cản cho sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi
phải tăng cường công tác quản lý, điều tiết, cân đối vĩ mô đối với việc khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực. Thực trạng đó đặt
ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới, hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước
để phát huy tối đa những tác động tích cực và giảm thiểu những tiêu cực trong
việc phát huy nội lực và ngoại lực nhằm đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền
vững, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời tránh tình trạng suy giảm vai trò của
nhà nước và nguy cơ chệch hướng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, tôi
chọn chủ đề: “Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành
Triết học của mình.
42. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cở sở làm rõ vai trò của nhà nước, thực trạng, và những vấn đề đặt
ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong
hội nhập quốc tế, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, đảm bảo
phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Làm rõ sự cần thiết phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc
tế và vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy đó ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, phân tích một số vấn đề đặt ra đối với vai trò của
Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển
bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội
lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của nhà
nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước, về vấn đề phát huy nội lực và ngoại lực, về hợp tác quốc tế, hội nhập
quốc tế, đường lối đối ngoại của Việt Nam...
5Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của một số công trình nghiên cứu,
đề tài khoa học, sách, báo, tài liệu ... có liên quan đến những nội dung được
đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách
quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử…
Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh...
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng
cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ
thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát
huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết
thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường
đại học, học viện…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cho đến nay, khó có thể thống kê hết số lượng công trình, bài viết
nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò của nhà nước, phát huy nội lực, ngoại
lực và hội nhập quốc tế, song có thể thấy, mỗi công trình, đề tài, ở các góc độ
khác nhau đã cung cấp những tư liệu khoa học cả về lý luận và thực tiễn, làm
cơ sở cho những người quan tâm nghiên cứu và những người hoạch định
chính sách về các vấn đề nêu trên. Trong số các công trình đó, có một số
nhóm công trình tiêu biểu như sau:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI LỰC, NGOẠI LỰC VÀ VAI
TRÒ CỦA CHÚNG TRONG SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
* Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực,
ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia.
Adam Smith trong tác phẩm “Tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của cải
của quốc gia” đã chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính
là vốn, sức lao động và đất đai, đây chính là cái gốc của sự tăng trưởng kinh
tế. David Ricardo nghiên cứu nguồn lực dựa vào lợi thế so sánh và coi lợi thế
so sánh chính là nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội [7, tr.7].
Trong khi nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc thành tựu của kinh tế chính trị
học cổ điển Anh, C.Mác, trong các tác phẩm của mình, đã nhiều lần bàn luận
về nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa sức lao động,
tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật… Trong đó ông nhấn mạnh và khẳng định giá
trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử phát
triển của loài người. Mác cũng chỉ rõ mối liên quan giữa tư bản (vốn) với việc
sản sinh giá trị thặng dư của CNTB qua công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền).
Ngoài ra yếu tố khoa học, kỹ thuật - một bộ phận của lực lượng sản xuất tiến
bộ cũng được ông xem xét như một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của các nước tư bản. Đây là những quan điểm khoa học, làm
cơ sở lý luận cho các nghiên cứu có liên quan sau này [7, tr.7].
7Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên
sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu
tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức
lao động…) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ,
bí quyết công nghệ)… Năm 2003, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Đại học
Havard, ông Dani Rodrik cho rằng nguồn lực để phát triển bao hàm các yếu tố
nội sinh, ngoại sinh và bán ngoại sinh của nền sản xuất. Trong đó, yếu tố nội
sinh gồm vốn, lao động, khoa học kỹ thuật; yếu tố ngoại sinh gồm vị trí địa
lý, khí hậu, địa hình, sinh thái, thái nguyên thiên nhiên; yếu tố bán ngoại sinh
gồm thể chế và tác động của quá trình hội nhập [7, tr.7].
Hiện nay sự bùng nổ thông tin với sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin đã khiến nhiều học giả cho rằng thông tin cũng là một nguồn
lực to lớn cho sự phát triển. Tác giả cuốn sách “Thế giới phẳng”, Thomas
Friedman còn ngụ ý rằng thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ của thông tin,
chịu sự chi phối bao trùm của thông tin. Nhưng trên thực tế, cho đến nay,
chưa có một bằng chứng hay công trình nghiên cứu nào chứng tỏ một cách rõ
ràng thông tin là một nguồn lực chi phối sự phát triển [7, tr.7].
* Ở Việt Nam, nhiều tác giả, nhiều công trình, bài viết cũng đã đi sâu tìm
hiểu về vấn đề nguồn lực, động lực, phát huy nội lực, ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc và thời đại… để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước hết, các nhà khoa học đã đi sâu làm rõ quan niệm về nguồn lực,
động lực, nội lực, ngoại lực và trò của chúng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta hiện nay.
- Đề tài KX.04.08/06-10 “Nguồn lực và động lực cho sự phát triển nhanh
và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” của Viện Chiến
lược phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn về nguồn lực, động lực phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế. Về mặt lý luận, công trình cung cấp những khái niệm căn bản về
nguồn lực phát triển nhanh và bền vững ở nước ta, cách phân chia nguồn lực,
các phương pháp huy động, sử dụng nguồn lực, kinh nghiệm của các nước
trong việc huy động, sử dụng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội [7].
8Trong công trình này, các tác giả đã nêu lên khái niệm nguồn lực cho sự
phát triển đất nước hiện nay:
Nguồn lực phát triển là tất cả các yếu tố đầu vào đang sử dụng hoặc
đang ở dạng dự trữ, dự phòng, sẵn sàng sử dụng phục vụ cho quá
trình sản xuất, kinh doanh của xã hội theo những cách thức khác
nhau nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho xã hội đạt
được những mục tiêu đề ra [7, tr.38].
Từ quan niệm đó, công trình cũng phân chia nguồn lực thành các dạng
nguồn lực tiềm năng và các nguồn lực thực tế sử dụng, làm căn cứ để khảo
sát, đánh giá mức độ đóng góp của các nguồn lực vào sự phát triển.
Công trình cũng cung cấp những bằng chứng khoa học từ thực tiễn để
đánh giá đúng thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Từ đó, đề tài nêu những định hướng
huy động và sử dụng nguồn lực, hình thành và phát huy động lực phát triển
kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. Mặc dù vậy, trong công trình này, các
tác giả mới chỉ ở chủ yếu đề cập tới khái niệm nguồn lực và đánh giá các
nguồn lực cho sự phát triển đất nước ở góc độ kinh tế mà chưa có sự khái quát
các nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước nói chung.
- Cuốn sách “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TSKH Lê Du Phong
chủ biên [82] đã đề cập đến những vấn đề lý luận về nguồn lực, động lực phát
triển bao gồm các khái niệm, vai trò và yêu cầu phân bổ nguồn lực, phát huy
động lực trong phát triển; đồng thời chỉ rõ thực trạng sử dụng các nguồn lực
của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó chỉ ra các quan điểm
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực, sử dụng hợp lý
nguồn lực và phát huy đầy đủ động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức phân chia
nguồn lực, động lực, mối tương quan giữa các nguồn lực, đặc biệt là mối
tương quan giữa huy động, sử dụng các nguồn lực với việc phát triển nhanh,
bền vững được đề cập trong cuốn sách là những nội dung cần tiếp tục được đi
sâu nghiên cứu và làm rõ.
9- Tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn sách “Động lực và tạo động lực phát
triển xã hội” [98] đã nêu những quan niệm cơ bản về động lực và tạo động
lực phát triển xã hội hiện nay; vấn đề dân chủ hóa tạo môi trường và động
lực phát triển con người và xã hội; vấn đề động lực và tạo động lực phát
triển các thành phần kin