Luận án Ðổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt nam
Trong quá trình chuyển ñổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, ñặc biệt trong ñiều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam ngày càng sâu rộng, ñã và ñang ñặt ra yêu cầu mới ñối với chính sách tài chính nói chung và ñối với các ñơn vị sự nghiệp (SN) công nói riêng. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ngân sách Nhà nước (NSNN) chi cho các hoạt ñộng giáo dục, ñào tạo y tế, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, khoa học. - hoạt ñộng của các ñơn vị không thuộc khu vực sản xuất vật chất - ñược coi là thực hiện phân phối lạithu nhập quốc dân. ðồng hành cùng quá trình ñổi mới của nền kinh tế, vai trò, vị trí, chức năng của các ñơn vị SN công cũng có sự thay ñổi, từchỗ là một bộ phận cấu thành của hệ thống quản lý Nhà nước chuyển dần thành các ñơn vị có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công ñáp ứng những nhu cầu của xã hội (XH). Thay ñổi từ chỗ Nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ công, sang Nhà nước là một trong những ñối tượng ñược các ñơn vị SN ñápứng dịch vụ. Trong bối cảnh ñó, chính sách tài chính ñối với cácñơn vị SN công cũng ñã có nhiều ñổi thay. Quốc hội ñã ban hành Luật Ngân sách Nhà nước, Pháp lệnh Phí, lệ phí.; Chính phủ ñã ban hành nhiều nghị ñịnh, Bộ Tài chính ñã có nhiều thông tư hướng dẫn và bước ñầu ñã tạo ñược một số kết quả trong quản lý tài chính ñối với các ñơn vị SN công.Trong ñó ñiểm nhấn quan trọng nhất là thực hiện chế ñộ tự chủ tài chính ñốivới các ñơn vị SN công theo quy ñịnh tại Nghị ñịnh số 10/2002/Nð-CP ngày 16/01/2002 và tiếp sau là Nghị ñịnh số 43/2006/Nð-CP ngày 24/5/2006 của Chính phủ. Tuy vậy những thay ñổi trong chính sách tài chính ñối với các ñơn vị SN vẫn chỉ mới là những sửa ñổi, ñiều chỉnh do những ñòi hỏi từ thực tế quản lý; còn mang ñậm nét bao cấp, bộc lộ nhiều vấnñề không phù hợp với cơ chế thị trường. Những hạn chế của chính sách chiSN theo kiểu ngân sách 2 (NS) tăng dần hàng năm, thiếu tầm nhìn trung và dàihạn, tách rời giữa chi ñầu tư và chi thường xuyên; chưa có sự ñánh giá giữa việc sử dụng NS với kết quả hoạt ñộng SN dẫn tới hiệu quả sử dụng NSNNkhông cao. Bởi vậy, ñổi mới chính sách tài chính ñối với các ñơn vị SN ñang cần một giải pháp tổng thể, ñồng bộ, nhằm tạo ra ñược những thay ñổi cơ bản cả về cơ chế và cả về hệ thống chính sách tài chính. Từ thực tiễn hoạt ñộng quản lý tài chính, tác giả ñã chọn ðề tài “ðổi mới chính sách tài chính ñối với khu vực sự nghiệp công ở Việt nam”làm luận án tiến sỹ nhằm góp thêm ý kiến vào quá trình ñổi mới, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.