Luận án Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử

Hoạt động trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới nói riêng xuất hiện trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ XIII1. Trải qua thời gian, nền kinh tế thế giới có nhiều diễn biến thay đổi. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ thông tin của nhân loại phát triển mạnh mẽ không ngừng. Tất yếu, phương thức mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường có sự thay đổi về xu hướng. Khi Tim Berners – Lee phát minh ra “www” (word wide web) vào năm 1990, “www” đã giúp các doanh nghiệp nhiều trong việc trưng bày, cung cấp, chia sẻ thông tin, liên lạc với đối tác một cách nhanh chóng, tiện lợi, kinh tế 2. Hoạt động thương mại điện tử phát triển từ đó. Tại Việt Nam, đến năm 2006, hoạt động thương mại điện tử lần đầu tiên được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật như Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 9/6/2006 về thương mại điện tử. Với hiệu quả to lớn và đặc trưng nổi bật, thương mại điện tử có tốc độ phát triển chóng mặt và đa diện, trong đó bao gồm hoạt động môi giới thương mại điện tử. Hoạt động môi giới thương mại trong thị trường bắt đầu xuất hiện cách thức mới – được thực hiện thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu – gọi là hoạt động môi giới thương mại điện tử. Với ưu điểm tiện lợi, nhanh chóng và không bó hẹp trong khuôn khổ biên giới quốc gia, ngày nay dịch vụ môi giới thương mại điện tử có nhiều thay đổi về phương diện hoạt động. Hoạt động môi giới thương mại điện tử diễn ra như sau: trên mạng internet, bên môi giới thương mại điện tử sẽ thiết lập các giao diện, ứng dụng nhằm tạo ra “chợ ảo” để bên bán và bên mua có cơ hội kết nối. Bên môi giới thương mại điện tử sẽ được hưởng thù lao từ hoạt động môi giới của mình. Để tăng tính cạnh tranh với nhau, các thương nhân môi giới thương mại điện tử thường không tính phí đối với bên bán khi trình bày thông tin, hình ảnh sản phẩm dịch vụ của họ trên giao diện môi giới thương mại điện tử. Phí sẽ được tính theo tỷ lệ nhất định với các giao dịch thành công và do bên bán thanh toán. Yếu tố nền tảng công nghệ (giao diện, “chợ ảo” ) đóng vai trò quyết định tạo ra sự phụ thuộc và ảnh hưởng lớn đến hành vi thương mại của mỗi bên chủ thể tham gia.

pdf198 trang | Chia sẻ: thuylinhk2 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 700 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN NGỌC ANH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2022 BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN NGỌC ANH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 9 38 01 07 Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Thị Dung 2. TS. Đoàn Trung Kiên Hà Nội - 2022 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này. Nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Anh 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADR Giải quyết tranh chấp thay thế Bitcoin Một loại tiền tệ kỹ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã nguồn mở. CPTPP Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên là: Austrailia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. EVFTA Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU MASTER CARD Một loại thẻ thanh toán quốc tế thuộc công ty MasterCard Worldwide, một công ty đa quốc gia có trụ sở ở Purchase, New York, Mỹ phát hành. M&A Là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Mergers (Sáp nhập) và Acquisitions (Mua lại) ODR Phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến TNHH Trách nhiệm hữu hạn UNCITRAL Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (United Nations Commission on International Trade Law). VISA Là loại thẻ thanh toán quốc tế, được phát hành đầu tiên bởi tổ chức Visa International Service Association (Mỹ) vào năm 1976. VKFTA Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc VECOM Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) 3 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 6 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 12 1. Tình hình nghiên cứu về hoạt động môi giới thương mại điện tử và pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử 712 2. Một số nhận xét tổng thể về tình hình nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án 31 3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu 33 4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu 34 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 39 1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động môi giới thương mại điện tử 39 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động môi giới thương mại điện tử 39 1.1.2. Quan niệm về hoạt động môi giới thương mại điện tử 42 1.1.3. Đặc điểm pháp lý của hoạt động môi giới thương mại điện tử 48 1.1.4. Phân loại hoạt động môi giới thương mại điện tử 61 1.1.5. So sánh hoạt động môi giới thương mại điện tử với hoạt động môi giới thương mại truyền thống 64 1.1.6. Vai trò của hoạt động môi giới thương mại điện tử 66 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử 68 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử 68 1.2.2. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại điện tử 75 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 86 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 87 2.1. Quy định về chủ thể của hoạt động môi giới thương mại điệu tử 87 2.1.1. Bên môi giới thương mại điện tử 87 2.1.2. Bên được môi giới thương mại điện tử 96 4 2.2. Quy định về hợp đồng môi giới thương mại điện tử 99 2.2.1. Hình thức của hợp đồng môi giới thương mại điện tử 99 2.2.2. Giao kết và thực hiện hợp đồng môi giới thương mại điện tử 103 2.2.3. Chấm dứt hợp đồng môi giới thương mại điện tử 107 2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật môi giới thương mại điện tử 109 2.3.1. Nghĩa vụ cơ bản chung của các bên trong hợp đồng môi giới thương mại điện tử 109 2.3.2. Một số nghĩa vụ đặc trưng của bên môi giới thương mại điện tử 114 2.4. Quản lý nhà nước về môi giới thương mại điện tử 135 2.4.1. Nội dung quản lý nhà nước về môi giới thương mại điện tử 135 2.4.2. Một số nội dung cụ thể quản lý nhà nước về môi giới thương mại điện tử 136 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 142 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 143 3.1 . Bối cảnh hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử 143 3.1.1. Hoạt động môi giới thương mại điện tử đang phát triển trong thực tế, tất yếu đặt ra nhu cầu: quan hệ pháp luật mới phát sinh cần được pháp luật điều chỉnh kịp thời 144 3.1.2. Bất cập trong thực thi pháp luật môi giới thương mại điện tử đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật 146 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật môi giới thương mại điện tử được đặt ra từ hoạt động mang tính quốc tế 147 3.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử 148 3.2.1. Cần xác định rõ ràng và thống nhất phương pháp và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động môi giới thương mại điện tử 149 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật môi giới thương mại điện tử phải xuất phát từ quan điểm và các nguyên tắc nền tảng của pháp luật môi giới thương mại truyền thống 150 5 3.2.3. Pháp luật môi giới thương mại điện tử phải đảm bảo tính an toàn trong môi giới thương mại điện tử 150 3.2.4. Pháp luật môi giới thương mại điện tử phải đảm bảo tính hợp pháp trong hoạt động môi giới thương mại điện tử 152 3.2.5. Pháp luật môi giới thương mại điện tử phải đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động môi giới thương mại điện tử 152 3.2.6. Pháp luật môi giới thương mại điện tử phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 152 3.2.7. Pháp luật môi giới thương mại điện tử phải có tính thống nhất với pháp luật lao động 152 3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về môi giới thương mại điện tử 153 3.3.1. Kiến nghị xây dựng khái niệm môi giới thương mại điện tử để thống nhất nhận diện hoạt động này 153 3.3.2. Kiến nghị liên quan đến quy định về chủ thể môi giới thương mại điện tử 156 3.3.3. Kiến nghị liên quan đến quy định về chủ thể được môi giới thương mại điện tử 163 3.3.4. Kiến nghị liên quan đến nghĩa vụ đặc trưng của các chủ thể trong môi giới thương mại điện tử 165 3.3.5. Kiến nghị công tác thực thi pháp luật trong hoạt động môi giới thương mại điện tử 172 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN 176 178 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới nói riêng xuất hiện trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ XIII1. Trải qua thời gian, nền kinh tế thế giới có nhiều diễn biến thay đổi. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ thông tin của nhân loại phát triển mạnh mẽ không ngừng. Tất yếu, phương thức mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường có sự thay đổi về xu hướng. Khi Tim Berners – Lee phát minh ra “www” (word wide web) vào năm 1990, “www” đã giúp các doanh nghiệp nhiều trong việc trưng bày, cung cấp, chia sẻ thông tin, liên lạc với đối tácmột cách nhanh chóng, tiện lợi, kinh tế 2. Hoạt động thương mại điện tử phát triển từ đó. Tại Việt Nam, đến năm 2006, hoạt động thương mại điện tử lần đầu tiên được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật như Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 9/6/2006 về thương mại điện tử. Với hiệu quả to lớn và đặc trưng nổi bật, thương mại điện tử có tốc độ phát triển chóng mặt và đa diện, trong đó bao gồm hoạt động môi giới thương mại điện tử. Hoạt động môi giới thương mại trong thị trường bắt đầu xuất hiện cách thức mới – được thực hiện thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu – gọi là hoạt động môi giới thương mại điện tử. Với ưu điểm tiện lợi, nhanh chóng và không bó hẹp trong khuôn khổ biên giới quốc gia, ngày nay dịch vụ môi giới thương mại điện tử có nhiều thay đổi về phương diện hoạt động. Hoạt động môi giới thương mại điện tử diễn ra như sau: trên mạng internet, bên môi giới thương mại điện tử sẽ thiết lập các giao diện, ứng dụng nhằm tạo ra “chợ ảo” để bên bán và bên mua có cơ hội kết nối. Bên môi giới thương mại điện tử sẽ được hưởng thù lao từ hoạt động môi giới của mình. Để tăng tính cạnh tranh với nhau, các thương nhân môi giới thương mại điện tử thường không tính phí đối với bên bán khi trình bày thông tin, hình ảnh sản phẩm dịch vụ của họ trên giao diện môi giới thương mại điện tử. Phí sẽ được tính theo tỷ lệ nhất định với các giao dịch thành công và do bên bán thanh toán. Yếu tố nền tảng công nghệ (giao diện, “chợ ảo”) đóng vai trò quyết định tạo ra sự phụ thuộc và ảnh hưởng lớn đến hành vi thương mại của mỗi bên chủ thể tham gia. Đối với các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, 1 TS. Nguyễn Thị Vân Anh (2009), Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, trang 14. 2 Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Trần Công Nghiệp (2008), Bài giảng thương mại điện tử, Thái Nguyên, trang 9. 7 họ chỉ có thể tìm thấy nhau, xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt hoạt động thương mại thông qua nền tảng công nghệ của bên môi giới. Đối với bên môi giới thương mại điện tử, giá trị dịch vụ môi giới thương mại điện tử tạo ra khác với hoạt động môi giới truyền thống chính ở nền tảng công nghệ. Họ không chỉ tiến hành hoạt động môi giới bằng phương tiện điện tử mà họ tiến hành hoạt động môi giới bằng nền tảng công nghệ của mình. Qua bước đầu tìm hiểu nghiên cứu, nghiên cứu sinh nhận thấy có một số bất cập sau: Thứ nhất, lý luận về hoạt động môi giới thương mại điện tử chưa được xây dựng. Hoạt động môi giới thương mại điện tử chưa được xác định thống nhất về bản chất. Hoạt động môi giới thương mại điện tử vừa mang đặc điểm của hoạt động môi giới thương mại vừa mang đặc điểm của hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên, khi cần nhận diện hoạt động môi giới thương mại điện tử, chúng ta không thể tổng hợp một cách cơ học tất cả những đặc điểm pháp lý của các hoạt động thương mại trên. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu sâu về bản chất pháp lý của hoạt động môi giới thương mại điện tử. Chưa có công trình nghiên cứu nào phân biệt về bản chất pháp lý giữa hoạt động môi giới thương mại điện tử với hoạt động môi giới thương mại truyền thống. Việc phân biệt các hoạt động thương mại này sẽ hữu ích trong vấn đề định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Thứ hai, thực trạng quy định pháp luật còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại điện tử hiện nay chủ yếu điều chỉnh trên hai khía cạnh: Một là, pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại nói chung và môi giới thương mại nói riêng; Hai là, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên, khi đồng thời hai hệ thống pháp luật trên cùng điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại điện tử thì không tránh khỏi thực trạng chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu các quy định pháp luật điều chỉnh những sự kiệp pháp lý mới phát sinh. Thứ ba, hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ qua hình thức môi giới thương mại điện tử tại Việt Nam đem lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia, nhưng còn thiếu những nghiên cứu để có cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động này trên thực tiễn. Trong Báo cáo số 442/BC-CP ngày 1/10/2020, tại mục II.9.2.1 phần B cũng ghi nhận: “Thực tiễn cho thấy, có mô hình hoạt động thương mại điện tử không thuộc cả hai mô hình hoạt động thương mại điện tử đã quy định tại Nghị định số 8 52/2013/NĐ-CP (một số mô hình chỉ là nơi trung gian dẫn người mua tìm kiếm hàng hoá, dịch vụ sau khi truy cập từ một website khác và nhận hoa hồng với mỗi giao dịch thành công)Cần có các quy định pháp lý điều chỉnh các mô hình trên để đảm bảo điều chỉnh mô hình thương mại điện tử lành mạnh, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và tránh thất thu thuế với khoản lợi nhuận phát sinh”. Rõ ràng, đây là hoạt động thương mại có nhiều ưu điểm, lợi ích, phù hợp với xu hướng mua sắm hiện đại. Trong tương lai, các loại hình dịch vụ môi giới thương mại điện tử được dự đoán phát triển rất đa dạng về hình thức, sôi động về nội dung và hiệu quả về kinh tế. Ý thức pháp luật lạc hậu hơn so với thực tế xã hội, vì vậy, khi phát sinh một hoạt động mới thì tất yếu sẽ có tranh luận, các quan điểm khác nhau về nó. Việc nghiên cứu về hoạt động mới và hướng tới việc hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh là cần thiết. Ở mức độ tổng quan, chúng ta cần một thế giới quan khái quát, cơ bản và mang tính định hướng để có thể tạo ra nền tảng pháp lý cơ sở kịp thời điều chỉnh các hoạt động trên thực tế. Cả phương diện lý luận và thực trạng pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử đều chưa được nghiên cứu, vì vậy, cần thiết đặt ra nghiên cứu pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Luận án được thực hiện với mục đích: Nghiên cứu cơ sở pháp lý của hoạt động môi giới thương mại điện tử nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại điện tử. Để hoàn thành mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Khái quát tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động môi giới thương mại điện tử, lý luận pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử; - Phân tích quy định pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử và thực trạng thực thi pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử; - Tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và thực thi pháp luật của các nước có hoạt động môi giới thương mại điện tử phát triển. - Nghiên cứu những yêu cầu đặt ra và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về môi giới thương mại điện tử. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu 9 Đối tượng nghiên cứu của luận án là những nội dung pháp luật liên quan đến hoạt động môi giới thương mại điện tử; thực tiễn ban hành và thực thi pháp luật về hoạt động môi giới thương mại điện tử ở Việt Nam; kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại điện tử. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động môi giới thương mại điện tử dưới góc độ là một hoạt động thương mại. Hoạt động môi giới thương mại điện tử trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, xổ số; mua bán, trao đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh toán khác; dịch vụ đặt cược hoặc trò chơi có thưởng; dịch vụ phân phối, phát hành sản phẩm nội dung thông tin số, dịch vụ phát thanh, truyền hình không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật được trình bày trong luận án cũng phù hợp với phương pháp điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, cơ chế điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực thương mại. Về mặt không gian, luận án nghiên cứu về hoạt động môi giới thương mại điện tử trong thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Thị trường bán lẻ là phân khúc mà hoạt động môi giới thương mại điện tử ra đời, phát triển mạnh mẽ, có xu hướng tiếp tục mở rộng trong tương lai. Bán lẻ được hiểu là bán hàng hóa và các dịch vụ có liên quan trực tiếp cho người tiêu dùng, người tiêu dùng mua để phục vụ nhu cầu của cá nhân và hộ gia đình, không dùng để kinh doanh (bán lại); không bao gồm tiêu dùng cho sản xuất; Bán lẻ là công đoạn cuối cùng trong khâu lưu thông để sản phẩm đến với người tiêu dùng3 . 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận án dự kiến sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, bình luận, diễn giải, so sánh luật học, thống kê để làm rõ từng nội dung cụ thể, nhằm đạt được nhiệm vụ nghiên cứu được đề ra. Phương pháp phân tích, tổng hợp, bình luận, diễn giải là phương pháp sẽ được sử dụng chủ yếu. Nghiên cứu sinh sẽ sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc xử lý các thông tin từ công trình đã được công bố, đưa ra kết quả nghiên cứu của luận án. Phương pháp bình luận, diễn giải được sử dụng trong toàn bộ luận án khi 3 Phạm Hồng Tú (2012), Phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở nông thôn Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Viện nghiên cứu thương mại, trang 10. 10 nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động môi giới thương mại điện tử, các quy định pháp luật thực định về hoạt động môi giới thương mại điện tử. Phương pháp so sánh luật học là phương pháp sẽ được sử dụng để tìm hiểu lý thuyết, học thuyết pháp lý, kinh nghiệm xây dựng và thực thi pháp luật nước ngoài. Việc so sánh, đối chiếu sẽ giúp cho luận án chỉ ra những nội dung hợp lý trong các học thuyết pháp lý, các quan điểm pháp lý, các quy định pháp luật thực định cũng như thực tiễn thực thi của một số quốc gia. Từ đó, luận án sẽ có những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động môi giới thương mại điện tử. Phương pháp thống kê là phương pháp được sử dụng trong việc chứng minh qua số liệu thực tế nhằm giúp luận án có nội dung phong phú, thuyết phục. Ngoài những phương pháp chủ yếu nêu trên, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung bao gồm: (i) Phương pháp nghiên cứu ngành, được luận án sử dụng trong quá trình nghiên cứu kết hợp với các học thuyết pháp lý nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoạt động môi giới thương mại điện tử; (ii) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; (iii) Hệ thống quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 5. Những đóng góp mới của luận án Về mặt lý luận, luận án có những đóng góp cơ bản sau: Thứ nhất, trên cơ sở tham khảo về kế thừa giá trị của kết quả các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố, luận án phát triển hệ thống lý luận của hoạt động môi giới thương mại điện tử với những nội dung mới như: khẳng định rằng hoạt động môi giới thương mại điện tử là hoạt động môi giới thương mại được thực hiện nền tảng công nghệ. Chính nền tảng công nghệ đã tạo ra nhiều vấn đề pháp lý đặc trưng, cần được điều chỉnh mà hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn trống. Luận án xây dựng khái niệm pháp lý về hoạt động môi giới thương mại điện tử. Mặc dù cũng đã có các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài đề cập khái niệm liên quan đến môi giới thương mại điện tử nhưng cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về khái niệm pháp lý của hoạt động này. Luận án có sự so sánh các đặc điểm pháp lý giữa hoạt động môi giới thương mại điện tử với hoạt động môi giới thương mại truyền thống qua đó chỉ ra những vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình quản lý đối với hoạt động môi giới thương mại điện tử. Thứ hai, luận án khẳng định sự quản lý Nhà nước đối với hoạt động môi giới thương mại điện tử là cần thiết. Luận án làm rõ khái niệm pháp luật về hoạt động môi 11 giới thương mại điện tử. Luận án đưa ra cấu trúc hình thức và cấu trúc nội dung của pháp luật về hoạt động này có sự tham khảo các nước trên thế giới và Việt Nam; chỉ ra những ưu, nhược điểm trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật. Về mặt thực tiễn, luận án đã có những đóng góp cơ bản sau: Thứ nhất, luận án chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành trong việc quản lý hoạt động môi giới thương mại điện tử tại Việt Nam thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật về các vấn đề pháp lý như: Quy định về chủ thể của hoạt động môi giới thương mại điện tử; Quy định về hợp đồng môi giới

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phap_luat_ve_hoat_dong_moi_gioi_thuong_mai_dien_tu.pdf
  • pdf2.Nguyen Ngoc Anh. Tóm tắt TV.pdf
  • pdf3.Nguyen Ngoc Anh .Tóm-tắt TA.pdf
  • docx4.Nguyen Ngoc Anh. Điểm mới TA.docx
  • docx5.Nguyen Ngoc Anh. Điểm mới TV.docx
Luận văn liên quan