1. Lí do chọn đề tài
Raymond Carver (1939 - 1988) là nhà thơ, nhà văn viết truyện ngắn và thơ,
được xem là “một Chekhov của nước Mỹ hậu hiện đại” [18,215], người đã “thổi
một luồng gió mới vào thế giới truyện ngắn Mỹ, và ngay lập tức trở thành một bậc
thầy về hình thức” (Philadelphia Inquire) [17,trang bìa cuối] có nhiều ảnh hưởng
đến văn chương đương đại thế giới. Là nhà văn của khuynh hướng tối giản
(“minimalism”, còn được dịch là chủ nghĩa cực hạn, chủ nghĩa thiểu tố), Carver
nhất quán với lối viết nghệ thuật đơn giản hóa tới mức tối đa và hết sức kiệm lời
trong trần thuật. Trong văn học, nhờ có ông mà “khái niệm cực hạn được dùng rộng
rãi” (Lê Huy Bắc) và truyện của ông được xem là “cuốn ngụ ngôn cho cả thập kỉ
này” (Jayne Anne Phillips, New York). Nghiên cứu sáng tác của Raymond Carver
làm sáng tỏ hơn về khuynh hướng văn chương tối giản và góp phần minh định vị trí
của nhà văn trong dòng chảy văn học thế giới.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu sáng tác văn chương của Carver trên thế
giới, nhưng đi sâu xem xét và nghiên cứu truyện ngắn của ông từ góc nhìn của nghệ
thuật phi trung tâm - một trong những lí thuyết cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại,
đến nay vẫn còn là khoảng trống. Đề tài nghiên cứu truyện ngắn cực hạn của Carver
dựa trên những định đề của lí thuyết hậu hiện đại và nền tảng của khuynh hướng tối
giản sẽ là hướng tiếp cận có tính khoa học và có tính thực tiễn cao. Mặc dù, Carver
chưa bao giờ và không thích nhận mình là “nhà văn của chủ nghĩa tối giản”, song
sáng tác của ông là minh chứng hiển nhiên không thể chối cãi cho khuynh hướng tối
giản qua những nguyên tắc đặc trưng. Vì vậy, đề tài của luận án góp thêm một
hướng tiếp cận và nghiên cứu về tác phẩm của Raymond Carver.
176 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phi trung tâm trong truyện ngắn raymond carver, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HẠNH
PHI TRUNG TÂM TRONG
TRUYỆN NGẮN RAYMOND CARVER
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HẠNH
PHI TRUNG TÂM TRONG
TRUYỆN NGẮN RAYMOND CARVER
Chuyên ngành: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Mã số: 62.22.02.45
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. LÊ HUY BẮC
PGS.TS. LÊ NGUYÊN CẨN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu trong Luận án là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công
trình nào khác
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hạnh
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: GS.TS. Lê Huy Bắc và
PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn - những nhà khoa học đã tận tình hướng
dẫn để Luận án được hoàn thành.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: Trường Đại học sư phạm Hà
Nội; Trường Đại học Hồng Đức, Khoa Khoa học xã hội, Bộ môn
Văn học nước ngoài - Trường Đại học Hồng Đức - những cơ quan,
đơn vị đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa học.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................. 5
1.1. Những nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm ................................................. 5
1.1.1. Nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm ở nước ngoài .................................... 5
1.1.2. Nghiên cứu về phi trung tâm ở Việt Nam ................................................... 10
1.1.3. Những vấn đề đặt ra ................................................................................... 12
1.2. Những công trình nghiên cứu về Raymond Carver ...................................... 14
1.2.1. Nghiên cứu về Raymond Carver ở nước ngoài .......................................... 14
1.2.2. Nghiên cứu về Raymond Carver ở Việt Nam .............................................. 32
Tiểu kết ..................................................................................................................... 36
Chương 2: PHI TRUNG TÂM NHÂN VẬT ........................................................ 37
2.1. Đa trung tâm trong tổ chức nhân vật ............................................................. 37
2.1.1. Tính chất “đồng thời” trong thế giới nhân vật trung tâm .......................... 37
2.1.2. Dịch chuyển nhân vật trung tâm ................................................................. 47
2.2. Phá vỡ sự độc tôn về giới ................................................................................. 50
2.2.1. Phi trung tâm nam giới ............................................................................... 50
2.2.2. Phi trung tâm nữ giới .................................................................................. 56
2.3. Nhân vật là những “mảnh vỡ” ........................................................................ 62
2.3.1. Nhân dạng bất toàn sau mảnh ghép ........................................................... 63
2.3.2. Nhân vật là những mảnh vỡ không thể kết nối ........................................... 69
Tiểu kết ..................................................................................................................... 73
Chương 3: PHÂN TÁN ĐIỂM NHÌN.................................................................... 75
3.1. Đa điểm nhìn song hành và lắp ghép .............................................................. 75
3.1.1. Nhiều điểm nhìn cùng hướng về một sự kiện .............................................. 76
3.1.2. Các điểm nhìn song hành và lắp ghép xuyên suốt câu chuyện................... 80
3.2. Đối thoại và hoán vị điểm nhìn ....................................................................... 87
3.2.1. Khách quan hóa điểm nhìn ......................................................................... 88
3.2.2. Trò chơi luân chuyển điểm nhìn ................................................................. 93
3.3. Giọng trung tính và vật hóa điểm nhìn ........................................................ 101
3.3.1. Giọng điệu nước đôi của người kể ........................................................... 101
3.3.2. Vật hóa điểm nhìn ..................................................................................... 105
Tiểu kết ................................................................................................................... 110
Chương 4: PHÂN MẢNH CỐT TRUYỆN ......................................................... 112
4.1. Cốt truyện đa tầng và song song ................................................................... 112
4.1.1. Phân tầng cốt truyện không đồng bộ ........................................................ 113
4.1.2. Phân tầng cốt truyện theo lớp lang .......................................................... 121
4.2. Cốt truyện đứt đoạn và tái sinh .................................................................... 126
4.2.1. Đứt đoạn và tái sinh được tạo bởi sự sắp xếp phi logic ........................... 127
4.2.2. Cốt truyện gián đoạn và kết nối ................................................................ 134
4.2.3. Đứt đoạn và dư thừa trong cốt truyện tổng - phân - hợp ......................... 136
4.3. Cốt truyện kết nối tự do và ngẫu nhiên ....................................................... 138
Tiểu kết ................................................................................................................... 146
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...... 151
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Raymond Carver (1939 - 1988) là nhà thơ, nhà văn viết truyện ngắn và thơ,
được xem là “một Chekhov của nước Mỹ hậu hiện đại” [18,215], người đã “thổi
một luồng gió mới vào thế giới truyện ngắn Mỹ, và ngay lập tức trở thành một bậc
thầy về hình thức” (Philadelphia Inquire) [17,trang bìa cuối] có nhiều ảnh hưởng
đến văn chương đương đại thế giới. Là nhà văn của khuynh hướng tối giản
(“minimalism”, còn được dịch là chủ nghĩa cực hạn, chủ nghĩa thiểu tố), Carver
nhất quán với lối viết nghệ thuật đơn giản hóa tới mức tối đa và hết sức kiệm lời
trong trần thuật. Trong văn học, nhờ có ông mà “khái niệm cực hạn được dùng rộng
rãi” (Lê Huy Bắc) và truyện của ông được xem là “cuốn ngụ ngôn cho cả thập kỉ
này” (Jayne Anne Phillips, New York). Nghiên cứu sáng tác của Raymond Carver
làm sáng tỏ hơn về khuynh hướng văn chương tối giản và góp phần minh định vị trí
của nhà văn trong dòng chảy văn học thế giới.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu sáng tác văn chương của Carver trên thế
giới, nhưng đi sâu xem xét và nghiên cứu truyện ngắn của ông từ góc nhìn của nghệ
thuật phi trung tâm - một trong những lí thuyết cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại,
đến nay vẫn còn là khoảng trống. Đề tài nghiên cứu truyện ngắn cực hạn của Carver
dựa trên những định đề của lí thuyết hậu hiện đại và nền tảng của khuynh hướng tối
giản sẽ là hướng tiếp cận có tính khoa học và có tính thực tiễn cao. Mặc dù, Carver
chưa bao giờ và không thích nhận mình là “nhà văn của chủ nghĩa tối giản”, song
sáng tác của ông là minh chứng hiển nhiên không thể chối cãi cho khuynh hướng tối
giản qua những nguyên tắc đặc trưng. Vì vậy, đề tài của luận án góp thêm một
hướng tiếp cận và nghiên cứu về tác phẩm của Raymond Carver.
Kế thừa truyền thống nghệ thuật kể chuyện của A. Chekhov, E. Hemingway,
Raymond Carver đem lại một hình thức tự sự mới cho văn học Mỹ nửa sau thế kỷ
XX. Bằng lối viết của khuynh hướng tối giản kết hợp với nguyên lí phi trung tâm,
Carver xóa bỏ đặc tính một trung tâm duy nhất trong văn học trước đây, kiến tạo
những trung tâm mới trên nhiều phương diện nghệ thuật, từ nhân vật, điểm nhìn cho
đến cốt truyện, tạo ra phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng ông, góp phần làm
nên tính chất dân chủ hóa trong đời sống văn chương. Từ đó, tác giả đem lại cơ hội
cho bạn đọc nhập cuộc và nhận ra một diễn ngôn mới của nước Mỹ dưới “thời đại
2
Reagan”, những hoài nghi, bất ổn, những nguy cơ và sự tan vỡ “giấc mơ Mỹ” mà
con người hậu công nghiệp đang hàng ngày, hàng giờ đang phải đối mặt và tìm
kiếm lối đi.
Ở Việt Nam, việc giới thiệu và nghiên cứu Carver cũng như tác phẩm của
ông chưa nhiều. Cho đến nay, ngoài một số luận văn thạc sĩ, chưa có một công
trình nghiên cứu chuyên sâu nào xem xét truyện ngắn Carver từ những đặc trưng
cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại. Hơn nữa, trong nhà trường hiện nay, nhất là
trường đại học, việc tiếp cận với những vấn đề mới của văn học như văn học hậu
hiện đại bên cạnh cơ hội bổ sung kiến thức, trau dồi hoạt động nghiên cứu khoa
học, tích lũy kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy đang là một nhu
cầu cần thiết. Nghiên cứu truyện ngắn của một trong số các nhà văn hậu hiện đại
tiêu biểu như Raymond Carver, ở một phạm vi nhất định, đề tài sẽ đóng góp được
nhu cầu trên.
Tất cả những lí do trên là căn cứ khoa học cho phép chúng tôi thực hiện đề
tài: Phi trung tâm trong truyên ngắn Raymond Carver.
2. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, Luận án đặt ra những mục đích cơ bản sau đây:
2.1. Chỉ ra một cách hệ thống những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật phi
trung tâm, về sự tan rã của kiểu nhân vật trung tâm, nghệ thuật phân tán điểm nhìn
và phân mảnh cốt truyện trong truyện ngắn của Raymond Carver.
2.2. Nhận diện những đóng góp của nghệ thuật phi trung tâm trong truyện
ngắn Raymond Carver trong xu hướng dân chủ hóa văn chương thế giới và cảm
quan thời đại của sự đổ vỡ những “giấc mơ Mỹ dưới thời Reagan”, không những
tạo ra dấu ấn riêng cho nhà văn mà còn góp phần làm nên diện mạo của văn học Mỹ
nửa sau thế kỷ XX.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung tìm hiểu nghệ thuật phi trung tâm trong truyện ngắn của
Raymond Carver dựa trên ba phương diện: nhân vật, điểm nhìn và cốt truyện.
3.2. Phạm vi tác phẩm nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của Raymond Carver. Những
trích dẫn tác phẩm đưa vào luận án được chúng tôi trực tiếp dịch từ cuốn Raymond
Carver (2009), Collected stories (Will you please be quiet, please?, What we talk
3
about when we talk about love, Cathedral, Stories from Furious seasons, Fire and
Where I`m calling from, Beginners, Other stories and Selected Essays), The Library
of America (gồm 82 truyện ngắn và 4 tiểu luận), tham khảo một số bản dịch Em làm
ơn im đi được không? (Lâm Vũ Thao dịch (2012), Nxb Văn học), Mình nói chuyện
gì khi mình nói chuyện tình (Dương Tường, Nguyễn Hạnh Quyên dịch (2012), Nxb
Văn hoá Sài Gòn), Thánh đường (Phạm Minh Điệp dịch (2013), Nxb Văn học), một
số truyện ngắn được tuyển chọn trong Truyện ngắn Hậu hiện đại thế giới (Nxb Hội
nhà văn, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, 1999).
4. Phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận: Chúng tôi dựa vào nền tảng lí thuyết phê bình
giải cấu trúc trong mối tương quan với mĩ học hậu hiện đại để triển khai đề tài.
* Các phương pháp cụ thể: Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp
các phương pháp nghiên cứu chính:
- Phương pháp lịch sử - loại hình: dùng để khảo sát sự hình thành và vận
động của lý thuyết truyện ngắn hậu hiện đại, đặc trưng và các quan niệm riêng của
các nhà lý luận và Raymond Carver trong các lĩnh vực triết học, văn học, và các
phương diện nghệ thuật trần thuật.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên cứu một cách
hệ thống các mô hình trần thuật phi trung tâm như nhân vật, điểm nhìn và cốt truyện
theo nguyên tắc hậu hiện đại của Raymond Carver.
- Phương pháp văn hóa - lịch sử: dùng để khảo sát quá trình hình thành
truyện ngắn Raymond Carver (điều kiện triết học, kinh tế - xã hội, văn hóa - nghệ
thuật) và nghiên cứu đặc thù lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc trong truyện ngắn
Raymond Carver.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: dùng để nghiên cứu những tương đồng
và riêng biệt trong tư duy nghệ thuật truyện ngắn Raymond Carver với tác giả văn
xuôi theo xu hướng cổ điển, hiện đại và hậu hiện đại trong văn học thế giới.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: dùng để nghiên cứu những biểu hiện
làm nên giá trị nội dung cũng như hình thức nghệ thuật các tác phẩm của Carver.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu truyện ngắn của Raymond Carver
- một nhà văn của khuynh hướng cực hạn dưới góc nhìn của lí thuyết phi trung tâm,
từ đó chỉ ra xu hướng dân chủ hóa trong lối viết truyện ngắn làm nên sức hấp dẫn
4
của văn chương Mỹ những thập niên cuối thế kỉ XX và có sức lan tỏa đến văn
chương đương đại thế giới ở ba bình diện lớn: nhân vật phi trung tâm, nghệ thuật
phân tán điểm nhìn và phân mảnh cốt truyện.
5.2. Từ việc nghiên cứu nghệ thuật phi trung tâm trong truyện ngắn của
Carver, luận án chỉ ra sự tương tác hai chiều giữa sáng tác và cảm quan thời đại. Phi
trung tâm không chỉ làm nên diện mạo, đặc trưng phong cách nghệ thuật của Carver
mà hơn thế, nó góp phần làm nên diễn ngôn về “mặt trái của nước Mỹ dưới thời
Reagan”, một nước Mỹ “ngập ngụa trong sự phân hủy, bế tắc, mất niềm tin và
những đổ vỡ”. Từ đó, hình ảnh nước Mỹ - trung tâm một thời của thế giới, giấc
mộng của con người Mỹ những thập niên cuối thế kỷ XX được thay thế bằng hành
trình kiếm tìm một thế giới mới, thế giới của những cái bình dị, đời thường.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án được
cấu trúc thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Phi trung tâm nhân vật.
Chương 3. Phân tán điểm nhìn.
Chương 4. Phân mảnh cốt truyện.
5
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Raymond Carver là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ trong phạm vi
nước Mỹ thế kỉ XX mà đến nay, sáng tác cũng như cuộc đời, tiểu sử... của ông vẫn
tiếp tục gây nhiều tranh cãi và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều
nước. Tuy nhiên, do điều kiện sưu tầm cũng như khả năng tập hợp, xử lí tư liệu nên
bước đầu chúng tôi mới chỉ khảo sát được một số tài liệu nhất định dưới đây.
1.1. Những nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm
1.1.1. Nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm ở nước ngoài
Khái niệm hậu hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, đến nay, không còn mới
mẻ, tuy vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng không thể phủ nhận sự tồn tại của chúng là
có thật. Từ Jean-François Lyotard (1924-1998) với Hoàn cảnh hậu hiện đại, J.
Derrida (1930-2004) với Cấu trúc, kí hiệu và trò chơi trong diễn ngôn các khoa học
nhân văn cho đến Liviu Petrescu (1941-1999) với Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện
đại,... chủ nghĩa hậu hiện đại đã được bàn luận một cách thấu đáo và hệ thống từ
hoàn cảnh ra đời cho đến những vấn đề về thuật ngữ, thi pháp...
Không phải ngay từ đầu, khi khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại được xác lập
thì các khái niệm mang tính định đề như phi trung tâm, liên văn bản, đa trị, trò
chơi... cũng xuất hiện. Trải qua quá trình phân tích, chứng minh trên nhiều bình
diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, thông tin, công nghệ,... nghĩa là có sự tác
động tổng hợp nhiều yếu tố, các nhà nghiên cứu hậu hiện đại đã rút ra được những
khái niệm mang tính bản chất nhất, đặc thù nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhà
nghiên cứu hậu hiện đại quan niệm thế giới là một khối hỗn độn (chaos). Các sự vật,
hiện tượng đan bện, gắn kết vào nhau, chúng tồn tại không theo một trật tự nào mà
mang tính ngẫu nhiên (contigency). Thừa nhận có sự tồn tại hỗn độn ấy nghĩa là
thừa nhận sự xuất hiện có tính ngẫu nhiên. Do vậy, không có gì là trung tâm hoặc có
xu hướng trở thành trung tâm trong thế giới ấy. Và đặc tính “phi trung tâm” ngay
lập tức có mặt, thế chân cho tính “trung tâm” vốn tồn tại trong quan niệm trước kia.
Đặc biệt, nguyên tắc trò chơi xuất hiện chính thức loại bỏ quan niệm cấu
trúc có tính trung tâm - được trung tâm hoá, đồng thời xác lập sự tồn tại của khái
niệm phi trung tâm bên cạnh khuynh hướng từ bỏ quan niệm tổng thể của tác
phẩm và xác lập quan niệm mới về tính đa trị của văn bản cùng một số nguyên tắc
6
đặc thù khác của chủ nghĩa hậu hiện đại như: mảnh vỡ (phân mảnh), hỗn độn, hư
vô, rễ chùm... Chặng mốc này có thể được xem là một cuộc cách mạng của chủ
nghĩa hậu hiện đại về nhận thức cũng như trong lí luận và khơi mở cho thực tiễn
tiếp nhận văn bản sau này.
Khái niệm “trung tâm” vốn xuất hiện trong chủ nghĩa cấu trúc như là một sự
định danh, định tính của chủ nghĩa hiện đại. J. Derrida cho rằng: “trung tâm là phần
cốt lõi có tính chất sinh tử của mọi hệ thống: đó là nơi mà chúng ta sẽ không có một
phương cách nào thay thế nếu bị khiếm khuyết. Tại trung tâm, một nhân tố duy nhất
có thể hiện hữu là yếu tố trung tâm: không có bất cứ một thành tố nào trong hệ
thống có thể thay thế được nó - trung tâm bao giờ cũng mang tính tuyệt đối” (Dẫn
lại theo Lã Nguyên) [172]. Từ việc phân tích đặc điểm của vai trò trung tâm trong
hệ thống thần học Thiên Chúa giáo La Mã (lấy Thượng Đế làm minh hoạ) cho đến
khuôn mẫu của lí thuyết ngôn ngữ Saussure, Derrida đi đến kết luận: “trung tâm của
một hệ thống là yếu tố không có giá trị tương đương và không có bất cứ một yếu tố
nào trong hệ thống có thể thay thế hay hoán đổi, nó là khởi thuỷ và cũng là chung
cục cho mọi yếu tố trong hệ thống quy chiếu đến”. Từ đó, ông chỉ ra, “trung tâm là
một phần tạo nên hệ thống mà không thuộc về hệ thống, không phải là một thành
phần của tính toàn thể, tính chất trung tâm tự bản chất của nó đã bị phi trung tâm
hoá (decentralization) (Bằng chứng là Thượng Đế sáng tạo thế giới và vũ trụ, điều
hành vũ trụ nhưng không phải là một yếu tố của vũ trụ). Thậm chí là “không thể và
không bao giờ có một hệ thống lí thuyết mang tính chất toàn trị vì trong bất cứ một
hệ thống nào cũng đều có những nhân tố tự do vượt thoát ra ngoài sự chi phối của
trung tâm mà ông gọi đó là trò chơi của ngôn ngữ (play of language)” [171].
Derrida đã tư duy về “trò chơi” từ phía không hiện hữu, phi trung tâm. Ông
viết: “Đã đến lúc phải nghĩ rằng không có trung tâm nào cả, không thể hình dung
về trung tâm trong hình thức của một hữu thể hiện hữu, trung tâm không phải là
thứ tự nhiên, cũng không phải một tiêu điểm cố định mà là một chức năng, một
phi tiêu điểm (nonfocus) cho phép vô số sự thay thế của các kí hiệu hoạt động. Đó
chính là lúc ngôn ngữ xâm lấn khắp cái phổ quát, là lúc mà, trong sự vắng mặt của
một trung tâm hay nguồn gốc, mọi sự đều trở thành diễn ngôn - giả định như
chúng ta có thể đồng ý về từ này - nghĩa là, một hệ thống, trong đó, cái được biểu
đạt trung tâm, cái được biểu đạt khởi nguyên hay siêu nghiệm không bao giờ nằm
hoàn toàn bên ngoài một hệ thống của những khác biệt. Sự vắng mặt của cái được
7
biểu đạt siêu nghiệm đã mở rộng phạm vi và trò chơi của sự biểu đạt nghĩa đến vô
tận” [Dẫn lại 15,119-120].
Tiếp đến, trong Cấu trúc, kí hiệu và trò chơi trong diễn ngôn các khoa học
nhân văn (Structure Sign and Play in the Discourse of Human Sciences), từ việc
nhận thấy trung tâm vừa chi phối cấu trúc đồng thời vừa thoát khỏi cấu trúc tính, J.
Derrida viết: “Trung tâm là điểm mà tại đó sự thay thế các nội dung, các thành tố
hoặc các thuật ngữ không còn có thể nữa. Tại trung tâm, phép hoán vị của sự thay
đổi các thành tố (dĩ nhiên chúng có thể là những cấu trúc bao bọc bên trong một cấu
trúc) bị ngăn cấm. Ít nhất, phép hoán vị này luôn chứa đựng cái bị ngăn cấm. Vì thế,
nó có thể được cho là, trung tâm được tạo nên từ sự xác định duy nhất là