Qua các tài liệu nghiên cứu luật tục của các học giả trong nước [42],
[66], [95], [97]. tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước
khác có thể tóm lược như sau:
Vào cuối thế kỷ XIX khi nhiều miền ñất mới trên thếgiới ñược phát
hiện, nhất là khi chủ nghĩa thực dân phát triển, luật tục ñã bắt ñầu ñược quan
tâm nghiên cứu. Trong số các công trình nghiên cứu luật tục có những công
trình nghiên cứu ở các nước thuộc ñịa nhằm tìm hiểu phong tục tập quán của
người bản xứ ñể xây dựng luật pháp phục vụ cho việc quản lý xã hội ở các xứ
6
thuộc ñịa. Việc áp dụng thể chế quản lý xã hội nào ñể cai trị xã hội thuộc ñịa
ñã ñược Bronislaw Maninowski, người ñứng ñầu trường phái chức năng
nghiên cứu luật tục, kết luận: “Không dùng một thể chế xã hội này áp ñặt cho
một xã hội khác, mà phải sử dụng bản thân thể chế xã hội vốn có ñể quản lý
xã hội ñó“ (dẫn theo tài liệu 97, trang 14) [97, 14]. Ở châuÂu và nhất là các
nước châu Phi, người ta quan tâm tới luật tục ở góc ñộtừ tập quán nâng lên
trở thành luật pháp chỉ khi nó ñược một ñạo luật hay một quyết ñịnh của toà
án công nhận, khi ñó nó ñược biết như là luật, ñược chấp nhận như là luật và
thi hành như là luật. Đến ñầu thế kỷ XX, các nhà khoa học tiếp tục nghiên
cứu luật tục dưới góc ñộ nhân loại học và bắt ñầu văn bản hoá luật tục, mở
rộng phạm vi nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, như vấn ñề lý luận
và phương pháp nghiên cứu luật tục. Dựa trên những quan ñiểm chung ñó,
nhiều nhà khoa học bắt ñầu nghiên cứu luật tục của các dân tộc ở nhiều vùng,
nhiều quốc gia trên thế giới. Tài liệu [97,18] cho biết, ở châu Á có công trình
do Masaji Chiba (Nhật Bản) chủ biên, xuất bản năm 1986, trình bày luật tục
của người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản. Tiếp
ñến là công trình nghiên cứu của Von Benda- Beckmann K. và Von Benda –
Beckmann F. người Hà Lan về luật tục Inñônêxia, luậttục Malayxia. Công
trình nghiên cứu của Kayleen M. Hazle Hurst ñề cập ñến luật tục Canada,
Australia và New Zealand.
230 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC V AØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
___________________
TRÖÔNG THOÂNG TUAÀN
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2009
BOÄ GIAÙO DUÏC V AØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
___________________
TRÖÔNG THOÂNG TUAÀN
Chuyeân ngaønh : Lyù luaän ngoân ngöõ
Maõ soá : 62 22 01 01
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
Ngöôøi höôùng daãn khoa hoïc
GS.TS. BUØI KHAÙNH THEÁ
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
-----------------------------
PHƯƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG VĂN BẢN LUẬT TỤC ÊĐÊ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62 22 01 01
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- NĂM 2009
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu ra trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
2
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Các tiểu mục của luận án được trình bày và đánh số thành nhóm
chữ số, với số thứ nhất chỉ số phần hay chương, số thứ hai chỉ mục, số thứ ba
chỉ tiểu mục (ví dụ: 0.1. chỉ mục 1, phần Mở đầu; hoặc 2.1.2. chỉ tiểu mục 2,
mục 1, chương II). Các phần của tiểu mục được phân thành a, b, c, dưới a,
b, c, được ký hiệu i), ii), iii),
2. Nguồn tài liệu trích dẫn được ghi theo số thứ tự tương ứng của nó
trong phần danh mục tài liệu tham khảo và được đặt trong dấu ngoặc vuông [
] ngay sau trích dẫn: trước dấu phẩy là tài liệu tham khảo, sau dấu phẩy là số
trang. Chẳng hạn: [52, 113] là tài liệu tham khảo trong bảng theo số thứ tự
52, trang 113 của tài liệu tham khảo đó; hoặc ghi [52] là tài liệu tham khảo
trong bảng theo số thứ tự 52.
3. Các dẫn liệu trích từ tư liệu luật tục Êđê bằng tiếng Êđê hay tiếng
Việt đều được chỉ rõ vị trí trích dẫn để trong dấu ngoặc đơn (). Chẳng hạn ghi
(đk 5, tr. 44), tức là trích từ điều khoản số 5, trang 44 của tài liệu Luật tục
Êđê, NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
4. Cách ghi chữ Êđê dựa theo chữ viết hiện hành của người Êđê.
5. Phần dịch từ tiếng Êđê sang tiếng Việt chúng tôi trung thành với
bản dịch của sách Luật tục Êđê, NXB Chính trị Quốc gia, 1996; trong một số
trường hợp là chúng tôi dịch (dịch nghĩa đen hoặc nghĩa bóng) để nghĩa câu
văn sát hợp với nội dung phân tích.
6. Luận án viết tắt một số từ, cụm từ như sau: thành tố được/bị so
sánh (TTĐ/BSS); thành tố phương diện so sánh (TTPDSS); thành tố quan hệ
so sánh (TTQHSS); thành tố so sánh (TTSS); cấu trúc so sánh (CTSS); điều
khoản (đk).
3
MỤC LỤC
Tr.
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài 5
0.2. Tình hình nghiên cứu 5
0.2.1. Tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước khác 5
0.2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu luật tục Êđê 7
0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11
0.4. Phương pháp nghiên cứu 16
0.5. Đóng góp chính của luận án 17
0.6. Bố cục luận án 18
Chương I
CẤU TRÚC CỦA PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG VĂN
BẢN LUẬT TỤC ÊĐÊ
1.1. Tổng quan về so sánh 21
1.1.1. Những nội dung liên quan đến so sánh 21
1.1.2. Tiêu chí phân loại so sánh 24
1.2. Cấu trúc phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê 28
1.2.1. Đặc điểm của cấu trúc so sánh 28
1.2.2. Đặc điểm cấu tạo các thành tố cấu trúc 31
1.3. Phân loại cấu trúc so sánh 46
1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức cấu trúc 47
1.3.2. Phân loại theo tiêu chí quan hệ nghĩa 51
1.4. Mục đích sử dụng so sánh trong luật tục Êđê 57
1.4. 1. So sánh nhằm giải thích 58
1.4. 2. So sánh nhằm miêu tả 60
1.4.3. So sánh để đánh giá 64
1.4.4. So sánh để biểu lộ cảm xúc 66
1.4.5. So sánh nhằm thể hiện nhiều mục đích 68
1.5. Tiểu kết 69
Chương II
PHƯƠNG TIỆN HÌNH ẢNH VÀ KHẢ NĂNG BIỂU ĐẠT CỦA
PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG VĂN BẢN LUẬT TỤC
ÊĐÊ
2.1. Phương tiện hình ảnh của phương thức so sánh trong luật tục 71
2.1.1. Các loại hình ảnh so sánh 71
2.1.2. Chi tiết hoá hình ảnh so sánh 83
2.2. Các khả năng biểu đạt của phương thức so sánh 99
2.2.1. Khả năng so sánh phù hợp nội dung biểu đạt 99
2.2.2. Khả năng so sánh cụ thể hóa nội dung biểu đạt 103
2.2.3. Khả năng so sánh làm cho nội dung càng sâu sắc 104
4
2.2.4. Dùng nhiều so sánh để tăng hiệu quả nội dung biểu đạt 105
2.3. Tiểu kết 107
Chương III
TỪ PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG LUẬT TỤC ĐẾN
CÁC BIỂU TƯỢNG TINH THẦN
3.1. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về buôn làng 109
3.2. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về cộng đồng 126
3.3. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về thủ lĩnh 129
3.4. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về người vi phạm
luật tục 132
3.5. Tiểu kết 139
Chương IV
PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG LUẬT TỤC THỂ HIỆN
CÁC NHÂN TỐ VĂN HOÁ XÃ HỘI
4.1. Phương thức so sánh thể hiện văn hoá sản xuất 140
4.2. Phương thức so sánh thể hiện văn hóa ứng xử 146
4.3. Phương thức so sánh thể hiện các tri thức văn hoá dân gian 148
4.4. Phương thức so sánh thể hiện các yếu tố tâm lý dân tộc 164
4.5. Sự tương đồng và khác biệt về văn hoá giữa so sánh trong
luật tục Êđê và luật tục Jrai 172
4.6. Sự tương đồng và khác biệt về văn hoá giữa so sánh trong luật
tục Êđê với cách so sánh và diễn đạt của người Kinh 178
4.7. Tiểu kết 184
KẾT LUẬN 186
TÀI LIỆU THAM KHẢO 192
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 200
PHỤ LỤC 201
5
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Luật tục Êđê có giá trị nhiều mặt, cho đến nay chưa được khai thác hết
và việc nghiên cứu giá trị ngôn ngữ tình hình cũng không khác. Do đó, việc
tìm hiểu giá trị ngôn ngữ của luật tục Êđê là việc làm cần thiết và quan trọng
để góp phần bảo tồn và phát huy một vốn quý của văn hóa Êđê. Việc khảo sát
phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê, sẽ cho ta thấy so sánh trong
luật tục của dân tộc Êđê có những đặc điểm gì và mở rộng tìm hiểu thêm mối
quan hệ hai chiều giữa ngôn ngữ và văn hoá, cụ thể là giữa phương thức so
sánh với một số nhân tố văn hoá của dân tộc Êđê được thể hiện qua văn bản
luật tục Êđê. Những đặc điểm và mối quan hệ này tuy không dễ phát hiện,
nhưng liên quan mật thiết đến nhiều mặt khác nhau trong đời sống văn hoá
tinh thần người Êđê và đến lượt nó luật tục có tác dụng đối với việc củng cố,
ổn định, phát triển cộng đồng người Êđê.
Chọn đề tài: Phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê để
nghiên cứu, chúng tôi mong muốn góp phần khai thác, bảo tồn và phát huy
các giá trị luật tục của người Êđê trên Tây Nguyên.
0.2. Tình hình nghiên cứu
0.2.1.Tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước
khác
Qua các tài liệu nghiên cứu luật tục của các học giả trong nước [42],
[66], [95], [97]... tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước
khác có thể tóm lược như sau:
Vào cuối thế kỷ XIX khi nhiều miền đất mới trên thế giới được phát
hiện, nhất là khi chủ nghĩa thực dân phát triển, luật tục đã bắt đầu được quan
tâm nghiên cứu. Trong số các công trình nghiên cứu luật tục có những công
trình nghiên cứu ở các nước thuộc địa nhằm tìm hiểu phong tục tập quán của
người bản xứ để xây dựng luật pháp phục vụ cho việc quản lý xã hội ở các xứ
6
thuộc địa. Việc áp dụng thể chế quản lý xã hội nào để cai trị xã hội thuộc địa
đã được Bronislaw Maninowski, người đứng đầu trường phái chức năng
nghiên cứu luật tục, kết luận: “Không dùng một thể chế xã hội này áp đặt cho
một xã hội khác, mà phải sử dụng bản thân thể chế xã hội vốn có để quản lý
xã hội đó“ (dẫn theo tài liệu 97, trang 14) [97, 14]. Ở châu Âu và nhất là các
nước châu Phi, người ta quan tâm tới luật tục ở góc độ từ tập quán nâng lên
trở thành luật pháp chỉ khi nó được một đạo luật hay một quyết định của toà
án công nhận, khi đó nó được biết như là luật, được chấp nhận như là luật và
thi hành như là luật. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học tiếp tục nghiên
cứu luật tục dưới góc độ nhân loại học và bắt đầu văn bản hoá luật tục, mở
rộng phạm vi nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, như vấn đề lý luận
và phương pháp nghiên cứu luật tục. Dựa trên những quan điểm chung đó,
nhiều nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu luật tục của các dân tộc ở nhiều vùng,
nhiều quốc gia trên thế giới. Tài liệu [97,18] cho biết, ở châu Á có công trình
do Masaji Chiba (Nhật Bản) chủ biên, xuất bản năm 1986, trình bày luật tục
của người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản. Tiếp
đến là công trình nghiên cứu của Von Benda- Beckmann K. và Von Benda –
Beckmann F. người Hà Lan về luật tục Inđônêxia, luật tục Malayxia. Công
trình nghiên cứu của Kayleen M. Hazle Hurst đề cập đến luật tục Canada,
Australia và New Zealand.
Nhìn chung, trong thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu luật tục trên thế
giới đã đạt được những bước phát triển đáng kể, về phương diện lý luận, về
phương pháp, kể cả những công trình nghiên cứu các trường hợp cụ thể. Điều
này đã tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu luật tục ở Việt Nam.
Cũng theo tài liệu [97] thì ở nước ta vào đầu thế kỷ XX, luật tục của
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được các quan chức thuộc địa Pháp ở Việt
Nam quan tâm sưu tầm và lần lượt cho ra đời, luật tục Êđê (1926), luật tục
Stiêng (1951), luật tục Srê (1951), luật tục Ba Na, Xê Đăng (1952), luật tục
Mạ (1957), luật tục Jrai (1963)... Từ năm 1996, Viện Nghiên cứu Văn hoá
7
dân gian đã phối hợp với các sở văn hoá thông tin các tỉnh Tây Nguyên, tiếp
tục sưu tầm, bổ sung và lần lượt cho ra mắt nhiều bộ luật tục, như luật tục
Êđê (1996), luật tục Jrai (1997) luật tục M’nông (1998). Ở miền núi phía bắc
cho đến những năm 80 của thế kỷ XX việc sưu tầm luật tục mới được bắt đầu
và năm 1999 luật tục của người Thái được giới thiệu.
0.2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu luật tục Êđê
Năm 1913, viên Công sứ người Pháp tên L.Sabatier tỉnh Đăk Lăk cho
sưu tầm luật tục Êđê và lần đầu tiên luật tục Êđê được văn bản hoá vào năm
1926 bằng tiếng Êđê (ở nước Pháp). Đây là công trình sưu tầm về luật tục
đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1940, dịch giả người Pháp là D. Antomarchi dịch
luật tục này ra tiếng Pháp. Năm 1984, nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn
Hữu Thấu dựa vào văn bản luật tục Êđê bằng tiếng Pháp dịch sang tiếng Việt.
Cũng từ năm 1984, với chương trình điều tra Tây Nguyên của Nhà nước, luật
tục Êđê được sưu tầm bổ sung và cho in thành sách song ngữ Việt - Êđê, do
Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Hữu Thấu, Chu Thái Sơn biên soạn, có 11 chương
bao gồm 236 điều khoản, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1996.
Các công trình nghiên cứu về luật tục ở Việt Nam nói chung, luật tục
Êđê nói riêng không phải là nhiều, hầu hết là những chuyên khảo bàn về giá
trị nội dung, trong số đó có ít nhiều nhận định đề cập đến giá trị ngôn ngữ
của luật tục. Tuy nhiên cho đến nay chưa có chuyên khảo bàn sâu về giá trị
ngôn ngữ luật tục. Riêng về giá trị nội dung của luật tục Êđê thì đã được các
tác giả chú ý đến nhiều hơn và đi sâu vào nhiều khía cạnh khác nhau.
GS TS Ngô Đức Thịnh khi trình bày khái quát về luật tục đã khẳng
định những giá trị cơ bản của luật tục Êđê. Ông xem luật tục Êđê “là nguồn
tư liệu quý hiếm để nghiên cứu xã hội tộc người và văn hoá tộc người; là di
sản văn hoá độc đáo của dân tộc, là tri thức dân gian về quản lý cộng đồng”
[94, 130]. Đồng thời, tác giả cũng nêu những mối quan hệ giữa luật tục với
đời sống và sự tác động của nó đối với quá trình phát triển xã hội, với các nội
8
dung cụ thể, như: luật tục từ trong buôn làng đến quốc gia - dân tộc; từ luật
tục đến pháp luật nhà nước; luật tục, toà án phong tục và tổ hoà giải của
làng buôn. Tác giả đã nhấn mạnh: “Bộ luật tục (Luật tục Êđê) là những trang
sử truyền khẩu được ghi chép lại, nó phản ánh sắc nét chân dung của một tổ
chức xã hội mẫu hệ còn khá điển hình trên cao nguyên miền Trung nước ta
vào những thập niên đầu thế kỷ XX” [95, 121].
Một số chuyên khảo khác nói về luât tục được tập hợp trong sách
“Chuyên đề về luật tục“ của Bộ Tư pháp (1997). Các bài viết nghiên cứu về
các nội dung luật tục Êđê, như cách thức tổ chức và vận hành của luật tục;
những quy định về hình phạt của luật tục; những yếu tố làm nền tảng cho
luật tục; quá trình vận động và phát triển của luật tục; bản chất và giá trị
của luật tục; luật tục, hương ước so với những quy định của bộ luật dân sự;
luật tục Êđê với việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên; vai trò của người
phụ nữ Êđê qua luật tục; vấn đề hôn nhân và gia đình trong luật tục Êđê
v.v...
Nghiên cứu về phương diện giá trị ngôn ngữ luật tục Êđê, trong số tài
liệu mà chúng tôi tham khảo chưa có đề tài nào trùng tên với nội dung cơ bản
của đề tài luận án. Tuy nhiên, trên thực tế tùy theo khuôn khổ của từng bài
viết và tuỳ theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu cụ thể mà từ lâu khía cạnh này
hay yếu tố khác về một số giá trị ngôn ngữ của luật tục Êđê cũng đã được đề
cập. Chẳng hạn đề cập đến đặc điểm ngôn ngữ của luật tục Êđê, Ngô Đức
Thịnh đã nhận định khái quát như sau: “Ngôn ngữ luật tục là loại văn vần, đó
là hình thức chuyển tiếp giữa khẩu ngữ hằng ngày với ngôn ngữ thơ ca. Hình
thức ấy làm cho người ta dễ nhớ, dễ lưu truyền để làm theo” [95, 34]. Đồng
thời, ông cũng nói rõ hơn về hình thức và một số tính chất của lời nói vần
trong luật tục Êđê như sau: “Hình thức văn vần (Klei duê) không chỉ có trong
luật tục, mà còn là một hình thức phổ biến trong văn chương truyền miệng
như khan, tục ngữ, dân ca, câu đố,... nó tạo nên hình thức ngôn từ đặc biệt.
Thực ra klei duê là một hình thức ngôn từ đã được phát triển lên từ khẩu ngữ
9
hằng ngày với cách nói luôn luôn ví von, so sánh, cụ thể, lặp đi lặp lại, ưa
thích dùng ngoa ngữ để khẳng định điều muốn nói. Chính vì thế mà klei duê
trong luật tục cũng như trong các thể loại khác của văn chương truyền miệng
Êđê rất gần gũi với nhau. Tất nhiên, do chỗ, nó- văn vần (klei duê)- là một
sáng tạo của cộng đồng, một biểu hiện của văn hoá thông tin nên so với khẩu
ngữ, nó hoàn thiện hơn, chặt chẽ hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, khả năng
truyền thụ nhậy bén hơn, ngưng đọng hơn, ấn tượng hơn” [95, 35].
Trong bài phát biểu của mình, in trong cuốn sách “Luật tục và phát
triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam” năm 2000 (chủ biên Ngô Đức Thịnh),
Oscar Salemink, đại diện Quỹ Ford tại Việt Nam cho rằng: “Các văn bản luật
tục này giống như một bài thơ dài, hay”.
Khi biên soạn tài liệu “Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam“ do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, tập thể biên soạn đã đưa luật tục các
dân tộc Việt Nam vào trong tài liệu và như thế có nghĩa là họ đã xác định luật
tục thuộc phạm trù văn học dân gian. Tuy nhiên, luật tục thuộc thể loại văn
học nào thì các tác giả chưa chỉ ra. Về luật tục Êđê, các tác giả đã đánh giá và
so sánh với luật tục các dân tộc khác như sau: “Luật tục của người Êđê và
M’nông lại được cơ cấu bằng văn nói, điểm xuyết nhiều thành ngữ và tục
ngữ, tiến bộ hơn nhiều so với bộ luật của người Xrê do J. Dournes và luật tục
của người Gia Rai do P. B. Lafont và Phan Đăng Nhật giới thiệu, có thể sánh
ngang, nhưng chính xác hơn, bộ luật của người Ba Na và Xơ Đăng do P.
Guilleminet sưu tập. Ở đây ta thấy một cách thích thú những quan niệm
mang tính xã hội, những thế ứng xử, những phong tục tập quán liên quan đến
tín ngưỡng tôn giáo, đến hôn nhân gia đình, đến thể chế xã hội rất cần thiết
cho các nhà làm luật và các nhà khoa học xã hội và nhân văn trong việc tìm
hiểu xã hội cổ truyền ở Tây Nguyên“ [111, 36].
Nhìn chung khi nêu lên quan điểm nhận xét đánh giá về phương diện
ngôn ngữ của luật tục, các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định ngôn
ngữ luật tục mang một số phẩm chất của ngôn ngữ văn chương truyền miệng
10
và đã đề cập một cách khái quát về đặc điểm của yếu tố vần, yếu tố hình ảnh
và biện pháp nghệ thuật, tuy những yếu tố này chưa được bàn sâu sắc. Ngoài
ra, những yếu tố khác cũng thuộc bình diện ngôn ngữ, theo chúng tôi được
biết, hiện nay vẫn chưa có bài viết nào đề cập.
Ta có thể nhận thấy rằng, ngôn ngữ luật tục là ngôn ngữ mang một số
phẩm chất của ngôn ngữ văn chương truyền miệng, nhưng luật tục chưa phải
là tác phẩm văn học dân gian như những thể loại văn học dân gian trường ca
hay tục ngữ, ca dao, dân ca, lại càng không phải như truyện cổ, thần thoại, sử
thi.v.v... Bởi vì, tuy ngôn ngữ luật tục cũng có tính chất thẩm mỹ văn học,
như cách thức diễn đạt, sử dụng biện pháp tu từ, hình thức trình bày.v.v... làm
cho ngôn ngữ có tính biểu trưng, tính biểu cảm và tính hình tượng, song chức
năng thẩm mỹ của những yếu tố này chỉ đóng vai trò phụ thuộc, thứ yếu mà
chức năng chủ yếu của ngôn ngữ luật tục là chức năng giao tiếp, chủ yếu để
trao đổi thông tin khi xử phạt đối với người có hành vi vi phạm luật tục.
Trong khi đó, trong tác phẩm văn học dân gian, những yếu tố ngôn ngữ có
chức năng thẩm mỹ được đẩy lên hàng đầu, chức năng giao tiếp được hiện
thực hoá qua các phương tiện và yếu tố làm nên tính thẩm mỹ, từ đó mà nội
dung giao tiếp được ghi nhận. Mặt khác, mục đích ý nghĩa của các yếu tố
thuộc hệ thống ngôn ngữ luật tục nhằm chủ yếu hướng đến những nội dung
có tác dụng quy định của luật tục, trong khi đó các yếu tố thuộc hệ thống
ngôn ngữ văn học dân gian lại chủ yếu hướng tới nội dung có giá trị hình
tượng - thẩm mỹ văn chương. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa ngôn
ngữ luật tục và ngôn ngữ văn chương truyền miệng là: nếu như trong ngôn
ngữ luật tục chức năng giáo tiếp được nổi lên hàng đầu và chức năng thẩm
mỹ là thứ yếu thì ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương lại ngược lại, chức
năng thẩm mỹ được đẩy lên hàng đầu và chức năng giáo tiếp là thứ yếu.
Đồng thời, kết cấu nội dung tác phẩm văn học dân gian được toát lên
từ quan hệ tổng hoà của các yếu tố thuộc tác phẩm, trong khi đó kết cấu nội
11
dung luật tục là phép cộng đơn giản của nội dung từng điều khoản (đk) hợp
lại mà thành.
Nhìn chung, giữa ngôn ngữ văn chương truyền miệng Êđê và ngôn
ngữ luật tục có những điểm tương đồng và khác biệt về cách thức sử dụng
hình ảnh, hình tượng, từ ngữ và đặc biệt là các biện pháp tu từ, hình thức bố
cục văn bản và cách thức trình bày v.v... Điều đáng lưu ý là ở ngôn ngữ luật
tục Êđê tồn tại một số yếu tố đã có trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày và
ngôn ngữ văn học dân gian, nhưng nó lại được sáng tạo phù hợp với mục
đích, yêu cầu thể hiện nội dung ý nghĩa của luật tục. Vì thế trong ngôn ngữ
luật tục Êđê có những yếu tố hay và đẹp riêng mà nhiều thể loại tác phẩm văn
học dân gian khác của dân tộc Êđê không có được.
0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng chính là phương thức so sánh trong
văn bản luật tục Êđê.
- Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là 236 điều khoản của luật tục Êđê,
bằng hai thứ tiếng Việt - Êđê trong cuốn sách Luật tục Êđê (Tập quán pháp)
của Nxb Chính trị Quốc gia (1996), do Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn và
Nguyễn Hữu Thấu biên soạn. Đây là cuốn sách mà nội dung và ngôn ngữ có
nhiều mặt sát hợp với thực tế đời sống hiện nay của người Êđê. Ngoài ra còn
so sánh với luật tục Jrai, luật tục M’nông.
Luật tục Êđê đã được ghi chép lại thành văn bản; dĩ nhiên, nó không
khỏi chịu ảnh hưởng của người ghi chép, như nhiều nhà nghiên cứu đã nói.
Chẳng hạn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét quá trình sưu tầm và văn bản hoá tục
ngữ ca dao, dân ca như sau: “Tục ngữ, ca dao của ta có nhiều câu, nhiều bài
qua nhiều thế hệ và tuỳ theo từng địa phương đã bị sửa chữa cả về hình thức
và nội dung không còn nguyên vẹn nữa... đến khi đã được ghi chép lại thì nó
mang phong cách từng người ghi chép.“ [70, 26].
Đây là những nhận xét về văn học dân gian Việt Nam, nhưng theo
chúng tôi nó cũng có giá trị chung, ít nhiều mang tính phổ quát. Văn bản luật
12
tục Êđê đã ấn hành, theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, phản ánh khá
trung thành hình thức ngôn ngữ khẩu ngữ toàn dân của người Êđê. Trong
luận án của mình, chúng tôi luôn luôn chú ý đến hai mặt đó của ngôn ngữ
luật tục Êđê. Chúng tôi còn chú ý đến nội dung dịch của sách, một số trích