1. Lý do chọn đề tài
Căng thẳng hay stress là một hiện tượng khá quen thuộc đối với mỗi cá nhân khi họ là thành viên của xã hội hiện đại. Trong những thập kỷ qua, thuật ngữ stress đã trở nên ngày càng phổ biến trong các ngành khoa học hành vi và sức khỏe, nhiều phương pháp điều trị đã được áp dụng trong nỗ lực giải quyết vấn đề sức khỏe phức tạp này (Papathanasiou, I.V., Tsaras, K., Neroliatsiou, A., & Roupa, A.R., 2015). Những stress vượt quá ngưỡng sẽ gây thiệt hại về thể chất, cảm xúc và tâm lí (Fricchione, G. L., Ivkovic, A., & Yeung, A.S., 2016), nên cần có những biện pháp khắc phục để giảm thiểu stress hoặc thoát khỏi stress.
Công tác xã hội (CTXH) là một nghề có các nguy cơ sức khỏe liên quan đến căng thẳng (Truter, E., Fouché, A., & Theron, L., 2017). Nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) tiếp xúc với các tình huống gây ra mức độ căng thẳng cao. Một số yếu tố góp phần là lượng công việc cao, thiếu thời gian, thiếu nhân viên và nhu cầu của khách hàng, quan hệ công việc với đồng nghiệp và khách hàng không tốt, và thiếu sự hỗ trợ của xã hội. Những yếu tố khác là xung đột vai trò, mơ hồ về vai trò, thiếu sự công nhận, cơ hội thăng tiến, và văn hóa tổ chức (Kim, Ji & Kao, 2011). NVCTXH có mức độ căng thẳng cao khi làm việc với nhóm khách hàng nhiều thách thức, chẳng hạn như những người mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng và dai dẳng, những người đang tự tử hoặc những người đang đối mặt với chấn thương / lạm dụng (Craig & Sprang, 2010; Lawson & Myers, 2011). Thường xuyên trải qua căng thẳng trong công việc ở NVCTXH dẫn tới gia tăng tỷ lệ mắc bệnh, sức khỏe thể chất kém, các triệu chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần, mức độ hài lòng thấp hơn trong công việc, thay đổi công việc thường xuyên hơn và xung đột tại nơi làm việc (Rovas, L, J. Lapenien˙e,˙& R. Baltrušaityte, 2012). Căng thẳng liên quan đến công việc có thể dẫn đến tăng nguy cơ chấn thương tại nơi làm việc, giảm khả năng tập trung, suy giảm chức năng nhận thức, khó khăn trong mối quan hệ, các vấn đề liên quan đến sức khỏe và sức khỏe tâm thần kém (Cox & Steiner, 2013). Căng thẳng trong công việc không chỉ gây ra các vấn đề về sức khỏe của nhân viên mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và gây ra các khoản chi phí lớn cho tổ chức (Poulsen, I., 2018).
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, CTXH đã phát triển trở thành một nghề chuyên nghiệp. Xong, ở Việt Nam nghề CTXH mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Chỉ từ khi Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2021 được ban hành, CTXH mới được chính thức coi như một ngành khoa học, một nghề chuyên môn với việc ban hành mã ngành đào tạo và mã số ngạch viên chức; tuy nhiên tính chuyên nghiệp của nghề còn hạn chế. Những vấn đề trên cũng có thể làm gia tăng mức độ stress đối với NVCTXH ở Việt Nam. Bên cạnh đó để góp phần thực hiện mục tiêu đề ra trong Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 – 2021: “Phát triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề CTXH; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến” (Thủ tướng chính phủ, 2010); NVCTXH ở Việt Nam phải nỗ lực trong công việc và học tập nâng cao trình độ, điều này làm cho NVCTXH dễ bị stress.
325 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 14/01/2024 | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Stress ở nhân viên công tác xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
VŨ THỊ LỤA
STRESS Ở NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
VŨ THỊ LỤA
STRESS Ở NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số : 62 31 04 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU
2. PGS.TS. BÙI THỊ XUÂN MAI
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
CSXH
Cơ sở xã hội
CTXH
Công tác xã hội
ĐLC
Độ lệch chuẩn
ĐTB
Điểm trung bình
TBC
Trung bình chung
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
NVXH
Nhân viên xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu 71
Bảng 2.2. Cách quy điểm trung bình của các biểu hiện stress, tác nhân gây stress, ứng phó với stress thành các mức độ biểu hiện stress, tác nhân gây stress, ứng phó với stress theo định tính ở nhân viên công tác xã hội 77
Bảng 3.1. So sánh stress ở nhân viên công tác xã hội theo các nhóm
khách thể 94
Bảng 3.2. Biểu hiện stress về mặt thể chất ở nhân viên công tác xã hội 98
Bảng 3.3. Biểu hiện stress về mặt nhận thức ở nhân viên công tác xã hội 100
Bảng 3.4. Biểu hiện stress về mặt cảm xúc ở nhân viên công tác xã hội 101
Bảng 3.5. Biểu hiện stress về mặt hành vi ở nhân viên công tác xã hội 103
Bảng 3.6. Tương quan giữa mức độ stress với các mặt biểu hiện stress và tương quan giữa các mặt biểu hiện stress với nhau ở nhân viên công tác xã hội 106
Bảng 3.7. So sánh các mặt biểu hiện stress ở nhân viên công các xã hội theo các nhóm khách thể có stress khác nhau 107
Bảng 3.8. Tác nhân từ yếu tố thời gian gây stress ở nhân viên công tác
xã hội 109
Bảng 3.9. Tác nhân từ yếu tố mối quan hệ gây stress ở nhân viên công tác xã hội 111
Bảng 3.10. Tác nhân từ yếu tố tình huống gây stress ở nhân viên công tác
xã hội 113
Bảng 3.11. Tác nhân từ yếu tố sức khỏe thể chất gây stress ở nhân viên công tác xã hội 115
Bảng 3.12. Tác nhân từ yếu tố sức khỏe tinh thần gây stress ở nhân viên công tác xã hội 116
Bảng 3.13. Tác nhân từ yếu tố đặc điểm công việc gây stress ở nhân viên công tác xã hội 117
Bảng 3.14. Tương quan giữa mức độ stress với các tác nhân gây stress và tương quan giữa các tác nhân gây stress với nhau ở nhân viên công tác xã hội 122
Bảng 3.15. Ứng phó với yếu tố thời gian 123
Bảng 3.16. Ứng phó với yếu tố mối quan hệ 125
Bảng 3.17. Ứng phó với yếu tố tình huống 126
Bảng 3.18. Ứng phó với yếu tố sức khỏe thể chất 128
Bảng 3.19. Ứng phó với yếu tố yếu tố sức khỏe tinh thần 129
Bảng 3.20. Ứng phó với yếu tố đặc điểm công việc của nhân viên công tác
xã hội 131
Bảng 3.21. Tương quan giữa các nhóm ứng phó với stress ở nhân viên công tác xã hội 134
Bảng 3.22. Tính lạc quan hay bi quan của nhân viên công tác xã hội 136
Bảng 3.23. Mức độ hài lòng đối với công việc của nhân viên công tác xã hội 137
Bảng 3.24. Chỗ dựa xã hội của nhân viên công tác xã hội 139
Bảng 3.25. Thời gian làm việc tại cơ sở xã hội của nhân viên công tác xã hội 141
Bảng 3.26. Thời gian làm việc nghề nghiệp ở nhà của nhân viên công tác
xã hội 142
Bảng 3.27. Thời gian làm việc nhà và việc cá nhân của nhân viên công tác
xã hội 143
Bảng 3.28. Nhận thức về tác nhân gây stress cho bản thân trước và sau tham vấn ở nhân viên công tác xã hội 155
Bảng 3.29. Nhận thức về ứng phó với stress cho tình huống của bản thân trước và sau tham vấn ở nhân viên công tác xã hội 156
Bảng 3.30. Mức độ stress ở nhân viên công tác xã hội trước và sau tham vấn 157
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Mức độ stress ở nhân viên công tác xã hội 93
Biểu đồ 3.2. Tổng hợp các mặt biểu hiện stress ở nhân viên công tác xã hội 104
Biểu đồ 3.3. Tổng hợp 10 biểu hiện stress rõ nhất ở nhân viên công tác xã hội 105
Biểu đồ 3.4. Tổng hợp các tác nhân gây stress ở nhân viên công tác xã hội 119
Biểu đồ 3.5. Tổng hợp 10 tác nhân gây stress thường xuyên nhất ở nhân viên công tác xã hội 120
Biểu đồ 3.6. Tổng hợp các ứng phó với stress ở nhân viên công tác xã hội 132
Biểu đồ 3.7. Tổng hợp 10 ứng phó hiệu quả nhất với stress ở nhân viên công tác xã hội 133
Biểu đồ 3.8. Khí chất ở nhân viên công tác xã hội 138
Biểu đồ 3.9. Ý định thay đổi công việc của nhân viên công tác xã hội 144
Sơ đồ 3.1. Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng với mức độ stress ở nhân viên công tác xã hội 145
Sơ đồ 3.2. Tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở nhân viên công tác xã hội 147
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Căng thẳng hay stress là một hiện tượng khá quen thuộc đối với mỗi cá nhân khi họ là thành viên của xã hội hiện đại. Trong những thập kỷ qua, thuật ngữ stress đã trở nên ngày càng phổ biến trong các ngành khoa học hành vi và sức khỏe, nhiều phương pháp điều trị đã được áp dụng trong nỗ lực giải quyết vấn đề sức khỏe phức tạp này (Papathanasiou, I.V., Tsaras, K., Neroliatsiou, A., & Roupa, A.R., 2015). Những stress vượt quá ngưỡng sẽ gây thiệt hại về thể chất, cảm xúc và tâm lí (Fricchione, G. L., Ivkovic, A., & Yeung, A.S., 2016), nên cần có những biện pháp khắc phục để giảm thiểu stress hoặc thoát khỏi stress.
Công tác xã hội (CTXH) là một nghề có các nguy cơ sức khỏe liên quan đến căng thẳng (Truter, E., Fouché, A., & Theron, L., 2017). Nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) tiếp xúc với các tình huống gây ra mức độ căng thẳng cao. Một số yếu tố góp phần là lượng công việc cao, thiếu thời gian, thiếu nhân viên và nhu cầu của khách hàng, quan hệ công việc với đồng nghiệp và khách hàng không tốt, và thiếu sự hỗ trợ của xã hội. Những yếu tố khác là xung đột vai trò, mơ hồ về vai trò, thiếu sự công nhận, cơ hội thăng tiến, và văn hóa tổ chức (Kim, Ji & Kao, 2011). NVCTXH có mức độ căng thẳng cao khi làm việc với nhóm khách hàng nhiều thách thức, chẳng hạn như những người mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng và dai dẳng, những người đang tự tử hoặc những người đang đối mặt với chấn thương / lạm dụng (Craig & Sprang, 2010; Lawson & Myers, 2011). Thường xuyên trải qua căng thẳng trong công việc ở NVCTXH dẫn tới gia tăng tỷ lệ mắc bệnh, sức khỏe thể chất kém, các triệu chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần, mức độ hài lòng thấp hơn trong công việc, thay đổi công việc thường xuyên hơn và xung đột tại nơi làm việc (Rovas, L, J. Lapenien˙e,˙& R. Baltrušaityte, 2012). Căng thẳng liên quan đến công việc có thể dẫn đến tăng nguy cơ chấn thương tại nơi làm việc, giảm khả năng tập trung, suy giảm chức năng nhận thức, khó khăn trong mối quan hệ, các vấn đề liên quan đến sức khỏe và sức khỏe tâm thần kém (Cox & Steiner, 2013). Căng thẳng trong công việc không chỉ gây ra các vấn đề về sức khỏe của nhân viên mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và gây ra các khoản chi phí lớn cho tổ chức (Poulsen, I., 2018).
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, CTXH đã phát triển trở thành một nghề chuyên nghiệp. Xong, ở Việt Nam nghề CTXH mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Chỉ từ khi Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2021 được ban hành, CTXH mới được chính thức coi như một ngành khoa học, một nghề chuyên môn với việc ban hành mã ngành đào tạo và mã số ngạch viên chức; tuy nhiên tính chuyên nghiệp của nghề còn hạn chế. Những vấn đề trên cũng có thể làm gia tăng mức độ stress đối với NVCTXH ở Việt Nam. Bên cạnh đó để góp phần thực hiện mục tiêu đề ra trong Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 – 2021: “Phát triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề CTXH; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến” (Thủ tướng chính phủ, 2010); NVCTXH ở Việt Nam phải nỗ lực trong công việc và học tập nâng cao trình độ, điều này làm cho NVCTXH dễ bị stress.
Trong thực tiễn, ý thức được tầm quan trọng của việc quản lí stress trong cuộc sống của từng cá nhân, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay những nghiên cứu về stress ở NVCTXH còn ít. Đặc biệt nghiên cứu thực tiễn theo hướng tìm ra những nhóm tác nhân gây stress ở NVCTXH để đưa ra các nhóm ứng phó tương ứng với các nhóm tác nhân gây stress, nhằm giảm thiểu stress hoặc thoát khỏi stress chưa thấy tác giả nào nghiên cứu. Do đó, việc tìm hiểu về stress ở NVCTXH nhằm nâng cao hiệu quả công việc và chất lượng cuộc sống của NVCTXH đang trở thành một yêu cầu cấp bách.
Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Stress ở nhân viên công tác xã hội” làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng về stress, cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở NVCTXH, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giúp NVCTXH giảm stress, thoát khỏi stress để tăng cường hoạt động nghề nghiệp và chất lượng cuộc sống cho NVCTXH.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Mức độ stress, biểu hiện stress, tác nhân gây stress, ứng phó với stress và các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở NVCTXH.
Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu chính: NVCTXH tại các tỉnh, thành khu vực Đông Nam Bộ.
Khách thể nghiên cứu phụ: cán bộ quản lí NVCTXH tại các tỉnh, thành khu vực Đông Nam Bộ và cán bộ quản lí đào tạo tại các trường có đào tạo CTXH.
Giả thuyết khoa học
Đa số NVCTXH có mức độ stress nhẹ.
Các biểu hiện stress trên các nhóm khách thể là khác nhau.
Có nhiều tác nhân gây stress cho NVCTXH, trong đó nhóm tác nhân từ yếu tố đặc điểm công việc gây stress cho NVCTXH ở mức cao nhất.
NVCTXH sử dụng đa dạng các ứng phó với stress, trong đó nhóm ứng phó với yếu tố sức khỏe thể chất và nhóm ứng phó với yếu tố đặc điểm công việc được NVCTXH sử dụng có hiệu quả hơn cả.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mức độ stress ở NVCTXH, trong đó yếu tố “thời gian làm việc nhà và việc cá nhân” ảnh hưởng tới mức độ stress mạnh nhất.
Có thể giảm mức độ stress bằng biện pháp tổ chức tham vấn cho NVCTXH.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan, hệ thống hóa, xây dựng cơ sở lý luận về stress ở NVCTXH.
Phân tích, đánh giá thực trạng mức độ stress, biểu hiện stress, tác nhân gây stress, ứng phó với stress, các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở NVCTXH.
Đề xuất các biện pháp hỗ trợ giảm stress cho NVCTXH.
Thực nghiệm để đánh giá tính khả thi của một biện pháp hỗ trợ giảm stresss cho NVCTXH.
Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu mức độ stress, biểu hiện stress, tác nhân gây stress, ứng phó với stress và 6 yếu tố ảnh hưởng tới stress trong cuộc sống, đặc biệt là hoạt động nghề nghiệp của NVCTXH đó là: tính lạc quan hay bi quan; mức độ hài lòng đối với công việc ; khí chất; chỗ dựa xã hội; thời gian làm việc; ý định thay đổi công việc.
Về khách thể nghiên cứu
Luận án chỉ nghiên cứu stress ở NVCTXH tại các cơ sở xã hội trực thuộc sở Lao động Thương binh và Xã hội của các tỉnh, thành khu vực Đông Nam Bộ; bao gồm 436 NVCTXH, trong đó: 267 NVCTXH tại Thành phố Hồ Chí Minh, 32 NVCTXH tại tỉnh Đồng Nai, 32 NVCTXH tại tỉnh Bình Dương, 34 NVCTXH tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và 71 NVCTXH tại tỉnh Bình Phước.
20 cán bộ quản lí NVCTXH tại các tỉnh, thành khu vực Đông Nam Bộ và cán bộ quản lí đào tạo tại các trường có đào tạo CTXH.
Về địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu của luận án được giới hạn ở các tỉnh /thành khu vực Đông Nam Bộ có những cơ sở xã hội đáp ứng tiêu chí về khách thể nghiên cứu của luận án, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Phước.
Thời gian thực hiện
Nghiên cứu stress ở NVCTXH trong thời gian từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Các nguyên tắc phương pháp luận
Đề tài luận án được tiến hành trên cơ sở lí luận của nhiều khoa học như: tâm lí học đại cương, tâm lí học xã hội, tâm lí học trị liệu, công tác xã hội, sinh lý học... Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản sau đây:
Nguyên tắc hoạt động: hoạt động là cơ sở của sự hình thành và phát triển tâm lý, đồng thời là nơi thể hiện sinh động đời sống tâm lý của con người. Chính vì vậy để hiểu được stress ở NVCTXH, trong đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên chính hoạt động hàng ngày, đặc biệt là hoạt động nghề nghiệp của NVCTXH. Nghĩa là, đề tài nghiên cứu stress nẩy sinh trong hoạt động hàng ngày, đặc biệt là hoạt động nghề nghiệp; những tác nhân gây stress từ hoạt động sống của NVCTXH.
Nguyên tắc hệ thống: các hiện tượng tâm lí không tồn tại một cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau; đồng thời chúng còn chi phối và chụi sự chi phối của các hiện tượng khác. Chính vì vậy, để hiểu rõ bản chất của một hiện tượng tâm lý nào đó chúng ta cần phải nghiên cứu nó một cách có hệ thống. Trong đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu mức độ stress ở NVCTXH trong mối quan hệ, tác động qua lại với các biểu hiện stress, tác nhân gây stress và các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở NVCTXH.
Nguyên tắc phát triển: tâm lý người luôn vận động và phát triển dưới sự tác động của nhiều nhân tố cá nhân và xã hội. Mọi hiện tượng tâm lý đều có thể được phát triển tốt hơn nếu có biện pháp tác động phù hợp và môi trường thuận lợi. Khi nghiên cứu về stress ở NVCTXH, chúng tôi cho rằng NVCTXH có thể giảm thiểu stress hoặc thoát khỏi stress nếu có những biện pháp phù hợp. Chính vì vậy, nội dung đề tài không chỉ tập trung làm sáng tỏ mức độ, biểu hiện, tác nhân gây stress, ứng phó với stress và các yếu tố ảnh hưởng đến stress ở NVCTXH mà còn đề xuất một số biện pháp giúp giảm stress ở NVCTXH và tổ chức thực nghiệm để đánh giá tính khả thi của một biện pháp.
Nguyên tắc tính liên ngành: để kết quả nghiên cứu đảm bảo tính khách quan và toàn diện về stress ở NVCTXH, đề tài cần có sự tiếp cận dưới góc độ của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: tâm lý hoc, công tác xã hội, sinh lý học... trong đó, tiếp cận tâm lý học là chủ đạo.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để giải quyết các nhiệm vụ đề ra, nghiên cứu này sử dụng phối hợp các phương pháp sau: phương pháp nghiên cứu lí luận; phương pháp chuyên gia; phương pháp điều tra bằng hỏi; phương pháp trắc nghiệm; phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp quan sát; phương pháp thực nghiệm; phương pháp mô tả chân dung trong thực nghiệm và phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học. Mục đích, nội dung của phương pháp và cách thức tiến hành các phương pháp được trình bày trong chương 2.
Những đóng góp mới của đề tài
Về mặt lí luận
Đề tài đã tổng hợp, khái quát, hệ thống hóa và xây dựng được một số vấn đề lý luận về stress ở NVCTXH: một số khái niệm cơ bản như khái niệm stress, khái niệm NVCTXH, khái niệm stress ở NVCTXH; mức độ stress ở NVCTXH bao gồm: mức độ bình thường, mức độ nhẹ, mức độ vừa, mức độ nặng, mức độ rất nặng; stress ở NVCTXH được biểu hiện ở 4 mặt: thể chất, nhận thức, cảm xúc, hành vi; các tác nhân gây stress ở NVCTXH bao gồm: tác nhân từ yếu tố thời gian, tác nhân từ yếu tố mối quan hệ, tác nhân từ yếu tố tình huống, tác nhân nhân từ yếu tố sức khỏe thể chất và tinh thần, tác nhân từ yếu tố đặc điểm công việc của NVCTXH; ứng phó với stress của NVCTXH bao gồm: ứng phó với yếu tố thời gian, ứng phó với yếu tố mối quan hệ, ứng phó với yếu tố tình huống, ứng phó với yếu tố sức khỏe thể chất và tinh thần, ứng phó với stress do đặc điểm công việc NVCTXH đang thực hiện; các yếu tố ảnh hưởng tới stress ở nhân viên công tác xã hội bao gồm: tính lạc quan hay bi quan, mức độ hài lòng đối với công việc, khí chất, chỗ dựa xã hội, thời gian làm việc của NVCTXH. Kết quả này góp phần làm phong phú thêm lí luận về stress nói chung và stress trong nghề nghiệp, nhất là nghề CTXH. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu có giá trị phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy những lĩnh vực có liên quan.
Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức stress ở những NVCTXH thuộc các nhóm có tỉnh /thành phố; giới tính; trình độ; lĩnh vực chuyên môn; dạng lao động; thu nhập; diện cư trú khác nhau. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ stress ở những NVCTXH thuộc các nhóm có thời gian công tác, tập huấn CTXH, đối tượng hỗ trợ, tình trạng hôn nhân khác nhau.
NVCTXH có biểu hiện stress ở bốn mặt, trong đó biểu hiện cảm xúc rõ nét nhất sau đó đến biểu hiện nhận thức, hành vi, thể chất. Có nhiều nhóm tác nhân gây stress cho NVCTXH, trong đó nhóm tác nhân gây stress nhiều nhất cho NVCTXH là nhóm tác nhân từ yếu tố đặc điểm công việc của NVCTXH. NVCTXH sử dụng đa dạng các ứng phó để ứng phó với stress; trong đó hai nhóm ứng phó: ứng phó với yếu tố sức khỏe thể chất, ứng phó với yếu tố đặc điểm công việc của NVCTXH được NVCTXH sử dụng hiệu quả nhất.
Kết quả hồi quy đơn biến cho thấy: yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến mức độ stress ở NVCTXH là “thời gian làm việc nhà và việc cá nhân”; kế đến là yếu tố chỗ dựa xã hội, tính lạc quan hay bi quan, ý định thay đổi công việc, khí chất, sự hài lòng nghề nghiệp; yếu tố “thời gian làm việc nghề nghiệp ở nhà” có ảnh hưởng ít nhất. Kết quả hồi quy đa biến cho thấy, sự kết hợp tất cả các yếu tố trên có khả năng giải thích cao nhất sự biến thiên mức độ stress ở NVCTXH.
Có 04 biện pháp giúp giảm stress cho NVCTXH và kết quả thực nghiệm đã chứng minh biện pháp tham vấn tâm lí có hiệu quả trong việc hỗ trợ giảm stress cho các NVCTXH có stress nặng và rất nặng.
Kết quả thực trạng trên về stress ở NVCTXH làm căn cứ cho việc xây dựng các biện pháp, chính sách, chế độ phù hợp đối với NVCTXH, giúp NVCTXH giảm stress, thoát khỏi stress, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống cho NVCTXH.
Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận, khuyến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về stress ở nhân viên công tác xã hội
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng về stress ở nhân viên công tác xã hội
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS
Ở NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
1.1. Tổng quan nghiên cứu về stress ở nhân viên công tác xã hội
Khi nghiên cứu tổng quan về stress chúng tôi hệ thống và phân tích theo ba hướng chính: hướng nghiên cứu mức độ, biểu hiện stress; hướng nghiên cứu tác nhân gây stress và hướng nghiên cứu ứng phó với stress. Trong từng hướng nghiên cứu chúng tôi sẽ hệ thống và phân tích từ những nghiên cứu chung về stress, kế tiếp là những nghiên cứu về stress nghề nghiệp và tới các nghiên cứu về stress ở NVCTXH.
Hướng nghiên cứu mức độ stress, biểu hiện stress
Các tác giả Johnson, S. Smith tìm hiểu biểu hiện stress ở mặt thể chất. Các tác giả đã thấy được sự liên quan giữa điện não đồ với stress. Có nhiều cơ chế thay đổi hoạt tính điện nhịp của não ở những giai đoạn khác nhau của stress, cũng như tùy theo điều kiện gây stress mà từng cá nhân có sự thay đổi khác nhau của điện não đồ (Johnson, S.Smith & T.J.Mycrs, 1968). Trong nghiên cứu này tác giả mới chỉ thấy được biểu hiên stress về mặt thể chất, chưa thấy được các biểu hiện stress một cách toàn diện.
V.X. Meclin (1981) nghiên cứu sự khác biệt mức độ stress ở từng cá nhân. Ông nhận xét rằng những người có hệ thần kinh yếu có độ nhậy cảm tri giác cao hơn những người có hệ thần kinh mạnh. Những khác biệt stress ở từng cá nhân không chỉ phụ thuộc vào mức độ mạnh, yếu của các quá trình thần kinh mà còn phụ thuộc vào một loạt thuộc tính khác của hệ thần kinh và của các quá trình tâm lí (dẫn theo Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện, 1994). Trong nghiên cứu này tác giả đã cho thấy sự khác biệt stress ở từng cá nhân phụ thuộc cả yếu tố sinh lý và tâm lí, tác giả đã có quan điểm tương đối toàn diện, khái quát về các yếu tố tạo ra sự khác biệt mức độ stress ở từng cá nhân.
Tác giả Đặng Phươ