Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa. (Kotler, 1961).
Mô hình siêu thị là một loại hình bán lẻ trong kênh phân phối hiện đại. Trên thế giới, tùy theo quy mô và phương thức hoạt động mà siêu thị được phân thành nhiều loại khác nhau như: hypermartket (đại siêu thị), supermarket (siêu thị), minimarket (siêu thị nhỏ), supercenter (đại siêu thị tổng hợp), . Ngoài ra còn có loại hình siêu thị chuyên doanh như: siêu thị kim khí điện máy, siêu thị nội thất, Tại Việt Nam, tên gọi chung vẫn là siêu thị nhưng được định nghĩa và phân loại như sau:
Theo quyết định 1371/2004/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) ký ngày 24 tháng 09 năm 2004 về việc ban hành Quy chế Siêu thị, Trung tâm thương mại: “Siêu thị là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, bao đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”.
Do sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại hình bán lẻ hiện đại cũng như xu hướng một điểm đến cho tất cả “one-stop-shopping” nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho người tiêu dùng, các siêu thị ở Việt Nam có thể là một công trình kiến trúc độc lập (ví dụ như: Coopmart, Big C, Satramart, Lottemart,. ), hoặc nằm bên trong trung tâm thương mại (chẳng hạn như: Vinmart, Aeon mart, ) hay bên trong trung tâm mua sắm như Coop Xtra, Vinmart,.
Quy mô siêu thị được phân thành ba hạng: hạng I, hạng II và hạng III:
Siêu thị hạng I: Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp, có diện tích kinh doanh từ 5.000 m2 trở lên, có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên. Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ cao, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho mọi đối tượng khách hàng, có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của siêu thị; có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại. Tổ chức bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng qua mạng, qua bưu điện, điện thoại. (quyết định 1371/2004/QĐ-BTM).
322 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 07/01/2025 | Lượt xem: 44 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của đặc điểm nhãn hàng riêng, giá trị mua sắm và truyền cảm hứng khách hàng đến lòng trung thành của khách hàng đối với các hệ thống siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________________
PHẠM THỊ TRÚC LY
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM NHÃN HÀNG RIÊNG, GIÁ TRỊ MUA SẮM VÀ TRUYỀN CẢM HỨNG KHÁCH HÀNG ĐẾN LÒNG TRUNG THÀNH CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI VỚI CÁC HỆ THỐNG SIÊU THỊ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________________
PHẠM THỊ TRÚC LY
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM NHÃN HÀNG RIÊNG, GIÁ TRỊ MUA SẮM VÀ TRUYỀN CẢM HỨNG KHÁCH HÀNG ĐẾN LÒNG TRUNG THÀNH CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI VỚI CÁC HỆ THỐNG SIÊU THỊ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Kinh doanh Thương mại
Mã số: 9340121
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ TẤN BỬU
GS.TS HÀ NAM KHÁNH GIAO
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
------------------
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ Kinh tế “Tác động của đặc điểm nhãn hàng riêng, giá trị mua sắm và truyền cảm hứng khách hàng đến lòng trung thành khách hàng đối với các hệ thống siêu thị siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2023
Phạm Thị Trúc Ly
Phạm Thị Trúc Ly
LỜI CẢM ƠN
Lời tri ân đầu tiên tôi xin kính gửi đến Ban Lãnh Đạo Đại học Kinh tế TP.HCM đã tạo điều kiện cho giảng viên học tập, nghiên cứu, đặc biệt là học nghiên cứu sinh tiến sĩ để theo đuổi nghề nghiệp của mình góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tôi luôn ghi nhớ và biết ơn những định hướng và những lời động viên của Thầy Giáo sư Chủ tịch Hội đồng UEH Nguyễn Đông Phong.
Tôi rất biết ơn Viện Đào tạo Sau Đại học đã tạo điều kiện, giúp đỡ về mặt thông tin, thủ tục, hỗ trợ nhiệt tình và nhất là lời động viên của PGS.TS. Hồ Viết Tiến trong suốt quá trình thực hiện luận án và học trình nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh Đạo Khoa Kinh doanh quốc tế - Marketing, Quý Thầy Cô, Anh Chị Em đồng nghiệp gia đình KQM đã hết lòng hỗ trợ giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và học tập.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai Thầy hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Lê Tấn Bửu và GS.TS Hà Nam Khánh Giao đã tận tình giúp đỡ, động viên, gợi ý, nhận xét, đánh giá, góp ý giúp tôi hoàn thành luận án này.
Những lời cảm ơn này cũng xin được gửi đến các anh chị em trong Ban Giám Đốc các siêu thị Coopmart, BigC, Giám đốc Emart, các chuyên viên của Lottemart đã dành thời gian giúp tôi tìm hiểu những thông tin thực tế, hữu ích cho đề tài nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn sinh viên K39, K40, K41 ngành Thương mại đã giúp tôi trong việc thu thập thông tin, khảo sát thị trường cho nghiên cứu này.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn Hội đồng đánh giá luận án cấp cơ sở và hai phản biện kín đã có những ý kiến phản biện, nhận xét đánh giá và góp ý quý báu giúp tôi hoàn thiện luận án của mình một cách tốt nhất.
Và sau cùng, tôi xin cảm ơn những người bạn, những đồng nghiệp, người thân đã tận tình giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận án này.
Dù có thể tôi là nghiên cứu sinh tốt nghiệp muộn nhất của UEH, tôi vẫn luôn có tinh thần học tập suốt đời và sẵn sàng cống hiến cho sự phát triển của Nhà Trường. Vì tôi biết rằng học tiến sĩ không chỉ là hoàn tất luận án vì luận án là một phần của chương trình đào tạo. Luận án là một báo cáo có hệ thống những phương pháp và kết quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Quá trình thực hiện luận án đã tạo cho nghiên cứu sinh một khả năng nghiên cứu độc lập và có thể bắt đầu tham gia vào môi trường của những nhà nghiên cứu hàn lâm, và tôi luôn biết ơn và trân quý.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2023
Phạm Thị Trúc Ly
MỤC LỤC
BẢNG QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
CFA
Phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor Analysis)
DDNHR
Đặc điểm nhãn hàng riêng
EFA
Phân tích nhân tố khám phá (Explanatory Factor Analysis)
GTMS
Giá trị mua sắm
HTX
Hợp tác xã
NHR
Nhãn hàng riêng
PL, PLs
Private Label, Private Labels
PLB
Private Label Brand
SB, SBs
Store brand, Store brands
SEM
Mô hình cấu trúc tuyến tính (Structural Equation Modeling)
SPSS
Phần mềm thống kê khoa học xã hội (Statistical Package for the Social Sciences)
TCH
Truyền cảm hứng khách hàng
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TRA
Theory of Reasoned Action (Thuyết hành động hợp lý)
TTST
Trung thành siêu thị
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.: So sánh Truyền cảm hứng và Truyền cảm hứng khách hàng 49
Bảng 2.2.: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu có trước 75
Bảng 3.1: Thang đo “Chất lượng NHR” 110
Bảng 3.2: Thang đo “Giá cả NHR” 111
Bảng 3.3: Thang đo “Tin tưởng NHR” 111
Bảng 3.4: Thang đo “Sự quen thuộc NHR” 112
Bảng 3.5: Thang đo “Giá trị mua sắm theo lợi ích” 113
Bảng 3.6: Thang đo “Giá trị mua sắm theo cảm xúc” 114
Bảng 3.7: Thang đo “Nguồn cảm hứng từ siêu thị” 115
Bảng 3.8: Thang đo “Hành động hướng tới” 116
Bảng 3.9: Thang đo “Lòng trung thành siêu thị” 117
Bảng 3.10: Thang đo lường cho nghiên cứu định lượng chính thức 129
Bảng 3.11: Danh sách 34 siêu thị khảo sát 136
Bảng 4.1: Tần suất đi siêu thị của khách hàng 148
Bảng 4.2: Tổng hợp hành vi mua sắm của khách hàng 148
Bảng 4.3: Kết quả đánh giá độ tin cậy của các thang đo 152
Bảng 4.4: Kết quả EFA biến Đặc điểm NHR 155
Bảng 4.5: Kết quả EFA phá biến Giá trị mua sắm 156
Bảng 4.6: Kết quả EFA các thang đo còn lại 157
Bảng 4.7: Kiểm định KMO và Barlett’s mô hình tới hạn 158
Bảng 4.8: Kết quả tổng phương sai trích 159
Bảng 4.9: Kết quả EFA mô hình tới hạn 159
Bảng 4.10: Kết quả độ tin cậy tổng hợp (CR) và phương sai trích trung bình (AVE) 166
Bảng 4.11: Kết quả trọng số ước lượng chuẩn hóa các biến quan sát 167
Bảng 4.12: Hệ số tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu 168
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định giả thuyết (chưa chuẩn hóa) 172
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu lý thuyết 91
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 93
Hình 3.2: Mô hình nghiên cứu chính thức 129
Hình 3.3: Quy trình chọn mẫu 132
Hình 4.1: Kết quả CFA chuẩn hóa – biến đa hướng Đặc điểm NHR 162
Hình 4.2: Kết quả CFA chuẩn hóa – biến đa hướng Giá trị mua sắm 163
Hình 4.3: Kết quả CFA chuẩn hóa – biến còn lại 164
Hình 4.4: Kết quả CFA chuẩn hóa – mô hình tới hạn 165
Hình 4.5: Kết quả SEM mô hình nghiên cứu (chuẩn hóa) 171
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4. 1: Giới tính và độ tuổi của đáp viên 143
Biểu đồ 4.2: Tình trạng gia đình của đáp viên 144
Biểu đồ 4.3: Nghề nghiệp của đáp viên 145
Biểu đồ 4.4: Thu nhập của đáp viên 145
Biểu đồ 4.5: Số thành viên trong gia đình đáp viên 146
Biểu đồ 4.6: Thời điểm đi siêu thị của khách hàng 147
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Bối cảnh nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Bối cảnh nghiên cứu
Sự ra đời của NHR là một cột mốc trong ngành bán lẻ (Skeenkamp và Dekimpe, 1997). Ban đầu NHR được xem là sản phẩm giá rẻ và có chất lượng thấp hơn những sản phẩm thương hiệu nhà sản xuất. Ngày nay, NHR là thách thức lớn đối với các thương hiệu nhà sản xuất. Chúng có mặt ở các cửa hàng bán lẻ với đa dạng chủng loại với giá rẻ hơn và đạt tiêu chuẩn chất lượng trung bình (Chakraborty, 2013). Nhà bán lẻ quan tâm phát triển NHR vì chúng mang lại lợi nhuận cao hơn, làm tăng khả năng thương lượng của nhà bán lẻ với các nhà cung cấp thương hiệu khác và có được lòng trung thành của khách hàng với cửa hàng (Ailawadi và cộng sự, 2008).
Khái niệm “nhãn hàng riêng” khởi xướng đầu tiên ở Hoa Kỳ. NHR xuất hiện đầu tiên ở các siêu thị tại Hoa Kỳ vào những năm 1960 ở dạng bao bì rất đơn giản, chỉ có màu trắng và màu đen. Đặc điểm của NHR lúc đó được mô tả như giá và chất lượng của NHR thấp hơn nhãn hàng của nhà sản xuất, hầu như không nhận được sự hỗ trợ của hoạt động quảng cáo. Lúc này, doanh thu của sản phẩm NHR chỉ chiếm 1% trong tổng doanh thu của loại sản phẩm thực phẩm (Burck, 1979). Tuy nhiên, vào năm 1980, doanh số của thực phẩm mang NHR tại siêu thị đã tăng 10%. Đến cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, NHR có mặt hầu như khắp mọi nơi và được mô tả như là một hiện tượng toàn cầu (Nielsen, 2005; Herstein và Gamliel, 2004). Kumar và Steenkamp (2007) cho rằng “các nhà bán lẻ hiện nay định vị NHR như là một thương hiệu theo cách riêng của họ”. Trong thế kỷ 21, doanh số thực phẩm NHR đã tăng lên 20% tại Hoa Kỳ (Goldsmith và cộng sự, 2010). Tại châu Âu, NHR chiếm giá trị một phần ba giá trị giỏ hàng của người tiêu dùng, và ở mức cao nhất là Thụy Sỹ (45%), Vương quốc Anh và Tây Ban Nha (41%), ở Đông Âu thì thấp hơn (24% ở Bồ Đào Nha) và thấp nhất là Ukraina (5%) (Nielsen, 2014). Điều này chứng tỏ NHR đã trở thành một trong những chiến lược về nhãn hiệu mà nhà quản lý bán lẻ cần đầu tư xây dựng thông qua hoạt động luôn cải tiến chất lượng, sản xuất sản phẩm NHR đa dạng hơn và hỗ trợ các hoạt động tiếp thị cho sản phẩm NHR.
Từ mức 16,3% vào năm 2015, mặc dù có sự suy giảm của NHR phổ thông, thị phần NHR tiếp toàn cầu tiếp tục tăng lên 17% vào năm 2017 (Nielsen, 2018) nhờ vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của NHR cao cấp. Châu Âu tiếp tục dẫn đầu về tốc độ phát triển của NHR, có 12 trong 19 nước có thị phần NHR tăng lên và đạt từ 30% doanh số tại 17 quốc gia, và cao nhất vẫn là Thụy Sỹ, thêm vào đó là Tây Ban Nha với 52% doanh số bán lẻ đến từ NHR. Tại Hoa Kỳ, mức tiêu thụ NHR tại siêu thị đã đạt 22,4% lượng hàng hóa bán ra đạt 18,2% doanh thu theo dollars (PLMA, 2018). Những số liệu trên đã chứng minh vai trò chiến lược của NHR trong chiến lược chung của nhà bán lẻ và xu hướng phát triển của NHR. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, giá trị của NHR chỉ chiếm trung bình là dưới 5%.
Theo báo cáo của Nielsen (2014), mặc dù NHR có thị phần còn rất thấp ở Đông Nam Á, kết quả nghiên cứu này nhấn mạnh nhận thức của người tiêu dùng hiện nay về chất lượng, giá trị, phân loại và đóng gói của NHR. Điều này chứng tỏ người tiêu dùng ngày càng thông minh trong việc mua sắm hàng hóa, đặc biệt mua sắm tại siêu thị. Ví dụ, 74% người tiêu dùng khu vực châu Á – Thái Bình Dương cho rằng nhận thức của họ về các NHR đã được cải thiện theo thời gian (so với tỉ lệ 71% trên toàn cầu), 66% (so với tỉ lệ 70% trên toàn cầu) người tiêu dùng cho rằng họ tiết kiệm được tiền khi mua sản phẩm NHR. Khi niềm tin tiêu dùng đối với sản phẩm NHR ngày càng tăng cao, điều này cho thấy rằng người tiêu dùng sẵn sàng cho việc sử dụng NHR.
Theo xếp hạng trong chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI) do Tập đoàn Tư vấn Thị trường AT Kearney (Mỹ) công bố hàng năm, Việt Nam liên tục lọt vào top 30 thị trường bán lẻ mới nổi hấp dẫn nhất thế giới cho đầu tư nước ngoài từ năm 2008 đến năm 2014 (Cổng Thông Tin Điện Tử Bộ Công Thương, 2016). Năm 2015, mặc dù lọt ra khỏi 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, Việt Nam thuộc top 10 quốc gia được đánh giá cao về tiềm năng bán lẻ bậc nhất khu vực. Theo các chuyên gia, thị trường bán lẻ Việt Nam có nhiều tiềm năng, bởi quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2015 đạt 102 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng đạt 7,3% trong giai đoạn 2010 - 2015. Năm 2016 cũng cho thấy tình hình khả quan của thị trường bán lẻ Việt Nam. Cụ thể, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước tính đạt 3,53 triệu tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm 2015 (cao hơn mức tăng 9,27% của cùng kỳ năm 2015). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2016 ước tính đạt 2,67 triệu tỷ đồng, chiếm 75,9% tổng mức bán lẻ và tăng 10,2% so với năm trước, trong đó tăng cao ở nhóm lương thực thực phẩm (tăng 13,6%) và nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (tăng 11,4%) (Cổng Thông Tin Điện Tử Bộ Công Thương, 2016).
Bên cạnh đó, do cơ cấu dân số trẻ, người trẻ với lối sống hiện đại, bận rộn và mức độ sẵn sàng chi tiêu là đối tượng chính mà các nhà bán lẻ hiện đại muốn tập trung khai thác. Sức mua ngày càng được cải thiện nhờ tầng lớp trung lưu bành trướng mạnh mẽ. Theo dự báo, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam với mức thu nhập 714 USD/tháng sẽ gia tăng từ 12 triệu người năm 2014 lên 33 triệu người vào năm 2020 (BCG, 2016). Tỷ lệ chi tiêu tăng, cùng với việc người tiêu dùng sẵn sàng chi trả để có chất lượng dịch vụ, sản phẩm cao, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như sự tiện lợi về địa điểm, muốn tận hưởng những trải nghiệm mua sắm thú vị cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy kênh bán lẻ hiện đại phát triển. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ và sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp thị dân mở ra cơ hội lớn cho thị trường bán lẻ hiện đại tại TP.HCM và nhiều tỉnh thành trên cả nước. Theo một báo cáo năm 2015 của Nielsen Việt Nam, 34% người tiêu dùng Việt Nam thường xuyên mua sắm tại đại siêu thị và 29% tại siêu thị.
Theo quy hoạch của Bộ Công Thương, cả nước đến năm 2020 sẽ có khoảng 1.200 – 1.300 đại siêu thị/siêu thị và 337 trung tâm thương mại và trung tâm mua sắm. Điều này cho thấy Việt Nam có chính sách khích lệ, tạo điều kiện cho sự phát triển của kênh bán lẻ hiện đại. Dự báo, giai đoạn 2016 – 2020, tốc độ tăng trưởng thương mại bán lẻ sẽ đạt 11,9%, quy mô thị trường khoảng 179 tỷ USD vào năm 2020 (Cổng Thông Tin Điện Tử Bộ Công Thương, 2016).
Đến cuối năm 2016, cả nước có 869 siêu thị, 170 trung tâm thương mại và hơn 2000 siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi (Tổng cục thống kê, 2017). Ngành bán lẻ Việt Nam có giá trị tăng trưởng mạnh trong năm 2016 trong đó hai kênh cửa hàng tiện lợi và bán lẻ qua mạng internet có tăng trưởng tốt nhất (Euromonitor, 2017).
Năm 2016 là năm có nhiều biến chuyển trong ngành bán lẻ. Nhiều công ty nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư và mở rộng mạng lưới cửa hàng bán lẻ tại Việt Nam nhờ chính sách đầu tư thông thoáng hơn. Takashimaya (Nhật Bản) đã khai trương trung tâm mua sắm đầu tiên vào ngày 30 tháng 6 năm 2016 ngay tại trung tâm thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 15.000 m2 với vốn đầu tư là 25 triệu USD. Sau khi khai trương trung tâm mua sắm đầu tiên ở Việt Nam năm 2014, Aeon Mall tiếp tục bành trướng và đến 2016 đã có bốn trung tâm mua sắm trên cả nước. Về cửa hàng tiện lợi, Red Circle Co Ltd cũng đã mở hơn 30 cửa hàng năm 2016, nâng số lượng cửa hàng của chuỗi từ 130 vào năm 2015 lên 166 năm 2016. Tương tự, B’s mart của BJC (Thái Lan) cũng tăng độ phủ phân phối ở Việt Nam từ 120 cửa hàng năm 2015 lên 146 cửa hàng năm 2016. Sau khi mua 49% cổ phần của Nguyễn Kim vào năm 2015, Central Group (Thái Lan) tiếp tục mua lại hệ thống đại siêu thị BigC của tập đoàn Casino (Pháp) vào năm 2016. Alibaba Group Holding Ltd đã mua lại Lazada – công ty bán lẻ online mạnh nhất trong cả nước. (Eurominitor, 2017).
Các hệ thống bán lẻ nổi tiếng dẫn đầu ở thị trường Việt Nam có thể kể đến là Saigon Co.opmart thuộc Liên hiệp Hợp tác xã Mua Bán TP.HCM với 89 siêu thị vào năm 2017 đến tháng 5 năm 2018 đã có 96 siêu thị, số lượng siêu thị mini (CoopFood) cũng tăng từ 130 lên 225 siêu thị mini trong giai đoạn này; VinGroup JSC, sau khi mua lại Ocean Mart vào năm 2014, Maximark và Vinatexmart vào năm 2015, đã có tốc độ phát triển ấn tượng, từ 1 Mega mall, có 33 siêu thị Vinmart, 650 cửa hàng tiện lợi Vinmart+ vào năm 2017, đến năm 2019 đã có 3 Mega mall, hơn 100 siêu thị Vinmart và hơn 2.000 cửa hàng tiện lợi Vinmart+ trên toàn quốc; Central group của Thái Lan sau khi mua lại chuỗi 33 BigC từ Casino-Pháp đã khai trương thêm một siêu thị vào tháng 9 năm 2017 và có chiến lược mở rộng trong những năm sắp tới; LotteMart thuộc Công ty Lotte Shopping (Hàn Quốc) với từ 4 siêu thị năm 2013 đã tăng qui mô lên 13 siêu thị; Auchan (Pháp) cũng đẩy mạnh đầu tư đến nay đã có 15 siêu thị. Tập đoàn Dairy Farm (tập đoàn bán lẻ hàng đầu khu vực châu Á) tham gia thị trường Việt Nam với hai thương hiệu nổi tiếng Guardian và Giant. Tập đoàn chuỗi cửa hàng tiện lợi mạnh nhất thế giới 7-Eleven đã khai trương cửa hàng đầu tiên vào ngày 15 tháng 6 năm 2017 tại Saigon Trade Center và đặt mục tiêu chiến lược phát triển 100 cửa hàng trong 3 năm và 1.000 cửa hàng trong vòng 10 năm. Ngoài ra, còn có hệ thống các trung tâm thương mại lớn như Tập đoàn Parkson (Malaysia) với 8 trung tâm thương mại, các trung tâm thương mại khác như Diamond Plaza, Nowzone, Pandora, Cresent mall, PICO Plaza và Thương xá Tax. Các nhà bán lẻ nổi tiếng khác trên thế giới cũng thể hiện sự quan tâm rất lớn tới thị trường Việt Nam trong tương lai như Wal-mart (Mỹ), Tesco (Anh) và South Investment (Singapore).
Việt Nam với sức mua của thị trường hơn 90 triệu người, trong đó, giới trẻ từ 15 tuổi đến 35 tuổi chiếm hơn 30% tổng dân số của cả nước (Nielsen, 2016), đang có thu nhập ngày càng tăng, lại thường xuyên thay đổi sở thích và nhu cầu và sẵn sàng chi tiêu đang là phân khúc khách hàng mục tiêu của nhiều nhà bán lẻ trong và ngoài nước. Thêm vào đó, theo khảo sát mới nhất của Nielsen năm 2017, chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam quý 2 năm 2017 tăng lên 5 điểm so với quý 4 năm 2016 (tăng từ 112 điểm lên 117 điểm) sẽ là cơ sở cho sự phát triển của các hoạt động kinh doanh thương mại. Theo công bố của AT Kearney vào tháng 6 năm 2017, Việt Nam đã tăng năm bậc lên vị trí thứ sáu trong xếp hạng Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI), trở thành một trong sáu thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu sau các thị trường lớn là Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ và Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất (UAE). Điều này cho thấy thị trường bán lẻ Việt Nam rất sôi động và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo dự kiến qui hoạch của Bộ Công thương đến năm 2020, 43% tổng mức bán lẻ hàng hóa sẽ qua kênh siêu thị và trung tâm thương mại. Điều này cho thấy tiềm năng của hệ thống phân phối hiện đại Kênh phân phối hiện đại (Modern Trade Distribution Channel) đề cập trong nghiên cứu này giới hạn trong phạm vi các mô hình kinh doanh tại Việt Nam như cửa hàng tiện lợi (Convenience store), siêu thị (Supermarket), đại siêu thị (Hypermarket) và trung tâm thương mại (Department store). Ngoài ra, các loại hình kinh doanh bán lẻ còn bao gồm: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa, cửa hàng trực tuyến và bán hàng qua truyền hình.
còn rất lớn, cũng như sự cạnh tranh trong ngành ngày càng trở nên gay gắt hơn. Thêm vào đó, người tiêu dùng Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó tính hơn, đặc biệt tại các khu vực thành thị lớn của cả nước. Họ không chỉ quan tâm đến giá cả, chất lượng sản phẩm, sự đa dạng của chủng loại hàng hóa và thương hiệu mà còn đặc biệt chú trọng đến chất lượng dịch vụ của nơi mua (Nguyen và cộng sự, 2007). Các chuỗi siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tiện lợi và các trung tâm thương mại buộc phải tung ra rất nhiều chương trình marketing nhằm lôi kéo khách hàng mới cũng như giữ chân khách hàng cũ của mình.
Tính cấp thiết của đề tài
Nhãn hàng riêng ngày càng trở nên quan trọng trên khắp thế giới (Sethuraman và Gielens, 2014) và có mặt trong hầu hết các chủng loại hàng hóa trong siêu thị (Geyskens và cộng sự, 2010; Nielsen, 2014). Một số lợi thế liên quan giải thích hiện tượng này là NHR cho các nhà bán lẻ một cơ chế để đạt được sự khác biệt trong thị trường tiêu dùng bằng cách cung cấp một bộ nhiều sản phẩm đặc biệt cho khách hàng của mình (Sayman và cộng sự, 2002), cũng như để giúp các nhà bán lẻ tăng cường lòng trung thành của người tiêu dùng (Ailawadi và cộng sự, 2008; Corjstens và Lal, 2000). Tuy nhiên, dù đã có nhiều các nghiên cứu trước đây, mối quan hệ giữa NHR và lòng trung thành cửa hàng vẫn còn khá không chắc chắn (Martos-Partal và Gonzaléz-Benito, 2011; Srinivasan và cộng sự, 2004) và có thể khá phức tạp (Koschate-Fischer và cộng sự, 2014) do điều kiện kinh tế xã hội và hành vi của người tiêu dùng ở mỗi quốc gia là khác nhau. Vì vậy mà Do Vale và cộng sự (2016) đã thực hiện nghiên cứu để kiểm định lại mối quan hệ này tại thị trường Bồ Đào Nha. Kết quả cho thấy trong các đặc điểm của NHR chỉ có đặc điểm “chất lượng NHR” tác động đến trung thành NHR và trung thành cửa hiệu. Như vậy kết quả cũng có thể khác nếu nghiên cứu ở một thị trường mới nổi như ở Việt Nam.
Từ những số liệu thống kê cũng như nghiên cứu, đánh giá của các tổ chức uy tín trên t