Luận án Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh tây nguyên giai đoạn hiện nay

Theo Luật Cán bộ, công chức (2008), cán bộ cấp xã là người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị -xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Như vậy, để có cán bộ, công chức (CB, CC) giữ các chức danh trong hệ thống chính trị (HTCT) ở xã, việc bầu cử, tuyển dụng là khâu chốtcuối cùng. Nhưng đội ngũ đó có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng và có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ hay không lại phụ thuộc vào yếu tố có tính quyết định: chất lượng nguồn do công tác tạo nguồn trước đó mang lại. Phát hiện, thu hút, quy hoạch tạo nguồn tốt, số lượng nguồn phong phú, đa dạng giúp cấp ủychủ độngchọn nguồn đủ số dư cho nhân sự bầu cử, tuyển chọn thuận lợi, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là khi chuyển giai đoạn cách mạng. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóanguồn tốt, đội ngũ nguồn sớm đạt chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất thì công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng CB, CC sẽ chủ động. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tạo nguồn cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, việc chủ động phát hiện tài năng trẻ, cán bộ có triển vọng đưa vào quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng. được các cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và quyết liệt tổ chức thực hiện, mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước. 2 Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cả nước, nơi cư trú của hơn 5,2 triệu người, trong đó có gần 2 triệu người thuộc 46 DTTS (chiếm tỷ lệ 37,84% số dân). Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện có trên 23.500 người, trong đó 26,8% là người DTTS. Bên cạnh cán bộ người Kinh đến từ nhiều nguồn, đội ngũ cán bộ người DTTS đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế -xã hội (KT-XH), giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống. Đó là kết quả của quá trình tạo nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạchcủa các cấp ủyđảng ở Tây Nguyên, đặc biệt là từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng.

pdf196 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2068 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh tây nguyên giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành : Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số́ : 62 31 23 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trương Thị Bạch Yến MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 Chương 1: TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28 1.1. Xã và nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên 28 1.2. Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên - khái niệm, phương thức và vai trò 54 Chương 2: NGUỒN VÀ TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76 2.1. Thực trạng nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 76 2.2. Thực trạng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 82 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 113 3.1. Dự báo những yếu tố tác động và phương hướng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020 113 3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020 121 KẾT LUẬN 154 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 PHỤ LỤC 174 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CB,CC : Cán bộ, công chức CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH : Chủ nghĩa xã hội DTTS : Dân tộc thiểu số GS : Giáo sư HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị KT-XH : Kinh tế - xã hội Nxb : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư ThS : Thạc sĩ TS : Tiến sĩ UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo Luật Cán bộ, công chức (2008), cán bộ cấp xã là người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Như vậy, để có cán bộ, công chức (CB, CC) giữ các chức danh trong hệ thống chính trị (HTCT) ở xã, việc bầu cử, tuyển dụng là khâu chốt cuối cùng. Nhưng đội ngũ đó có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng và có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ hay không lại phụ thuộc vào yếu tố có tính quyết định: chất lượng nguồn do công tác tạo nguồn trước đó mang lại. Phát hiện, thu hút, quy hoạch tạo nguồn tốt, số lượng nguồn phong phú, đa dạng giúp cấp ủy chủ động chọn nguồn đủ số dư cho nhân sự bầu cử, tuyển chọn thuận lợi, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là khi chuyển giai đoạn cách mạng. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa nguồn tốt, đội ngũ nguồn sớm đạt chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất thì công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng CB, CC sẽ chủ động. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tạo nguồn cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, việc chủ động phát hiện tài năng trẻ, cán bộ có triển vọng đưa vào quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng... được các cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và quyết liệt tổ chức thực hiện, mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước. 2 Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cả nước, nơi cư trú của hơn 5,2 triệu người, trong đó có gần 2 triệu người thuộc 46 DTTS (chiếm tỷ lệ 37,84% số dân). Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện có trên 23.500 người, trong đó 26,8% là người DTTS. Bên cạnh cán bộ người Kinh đến từ nhiều nguồn, đội ngũ cán bộ người DTTS đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống. Đó là kết quả của quá trình tạo nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên, đặc biệt là từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng. Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH, xét một cách toàn diện, đội ngũ CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít hạn chế. Số lượng, cơ cấu thành phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cả đội ngũ chưa đồng bộ. Khá phổ biến tình trạng cán bộ có trình độ thấp; năng lực bao quát, quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao; có nơi bắt đầu hẫng hụt cán bộ sau khi lớp cán bộ trưởng thành trong kháng chiến nghỉ công tác... Thực tế đó tạo nên trở ngại lớn cho việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở một địa bàn miền núi chiến lược trọng yếu đông đồng bào DTTS sinh sống. Những hạn chế đó có nguyên nhân từ việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên vừa qua còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, vận động, xây dựng các phong trào hành động cách mạng tại các thôn, buôn nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, phát hiện quần chúng ưu tú là người DTTS hiệu quả còn thấp. Công tác giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho học sinh, sinh viên, công chức tập sự, cán bộ giữ vị trí thấp là người DTTS để chuẩn bị nguồn cho công chức và cán bộ ở vị trí cao hơn chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa nguồn. Việc xây dựng chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là người DTTS về các xã. Công tác phát triển đảng viên mới người DTTS còn hạn chế, trong một thời gian dài còn có nhiều thôn, buôn chưa có chi bộ đảng độc lập, thậm chí “trắng” đảng viên... Khắc phục những hạn chế, 3 yếu kém ấy là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tình hình nêu trên, tôi chọn vấn đề “Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, với mong muốn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, thúc đẩy việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên ngày một tốt hơn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh việc tạo nguồn đội ngũ này đến năm 2020. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. - Khái quát tình hình Tây Nguyên, hệ thống chính trị các xã, đặc điểm, vai trò của CB, CC và nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên. - Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên. - Đánh giá đúng thực trạng nguồn và công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên, rút ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án * Đối tượng nghiên cứu của Luận án: là tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nước ta hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: - Luận án khảo sát, nghiên cứu việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắc, Đắk Nông, Lâm Đồng. 4 - Thời gian nghiên cứu từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ra đời đến nay, phương hướng, giải pháp đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Luận án 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn * Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ, công tác tạo nguồn cán bộ. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố. * Cơ sở thực tiễn: Luận án được nghiên cứu từ thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng, được phản ánh trong các văn bản báo cáo, các bảng biểu thống kê lưu trữ của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng có liên quan, và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của Luận án Luận án được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, như: lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, hệ thống, thống kê-so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án - Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên. - Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua. - Đề xuất hai giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển và giao trách nhiệm cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn Tây Nguyên tham gia tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. Hai là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò HTCT xã, lực lượng người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở thôn, buôn trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. 5 6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án - Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các cấp ủy đảng đẩy mạnh công tác tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên. - Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác, đặc biệt là các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện ở Tây Nguyên. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận án gồm Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 3 chương, 6 tiết. 6 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có tạo nguồn cán bộ của đảng cộng sản là vấn đề đã được trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; bài viết của các lãnh tụ của Đảng, Nhà nước; công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thời gian gần đây, có thể tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án như sau: I. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ và tạo nguồn cán bộ nói chung Công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài học mà V.I.Lênin từng tổng kết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào nắm được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [82, tr.473] trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời (1997) đến nay, nhiều công trình khoa học được triển khai, đề cập tổng thể những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác cán bộ của Đảng. Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” (1998) của PGS,TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) và sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm là hai công trình nghiên cứu lớn, xác định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ mới, đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ trong HTCT các cấp. Theo các tác giả, việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng đã 7 được kiểm nghiệm từ cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn quan chức trong các vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu khoa học quản lý của các nước. Đây là những quan điểm rất đổi mới về công tác cán bộ của Đảng, Luận án có thể kế thừa và vận dụng vào việc luận bàn về mục tiêu tạo nguồn và đổi mới việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người DTTS phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng Tây Nguyên. Nhiều công trình khác như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ; sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2007) của Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp, Lê Đức Bình…; sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” (2011) của TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội)... tiếp tục đưa ra nhiều luận cứ khoa học của việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của cán bộ và công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế của thời đại; về trách nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, HTCT; về quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án có thể kế thừa các kết quả nghiên cứu trên để vận dụng vào việc làm rõ vai trò của đội ngũ CB, CC và những yêu cầu đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên. Bài viết “Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng” (2004) của Vũ Văn Hiền và Tạ Xuân Đại (Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc) khẳng định công tác cán bộ của Đảng ta là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt; xây dựng đội 8 ngũ cán bộ chủ chốt là điều cốt lõi của vấn đề then chốt, vì vậy cần chuẩn bị chiến lược cán bộ, với nội dung quan trọng là tạo nguồn, xây dựng quy hoạch và chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ. Đối với hai khâu quan trọng của công tác cán bộ là đào tạo và luân chuyển, có các công trình: Đề tài khoa học cấp Bộ (1998-1999) “Những căn cứ lý luận và thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” do TS Trần Ngọc Uẩn (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, nhấn mạnh việc xây dựng một chương trình phù hợp phải được coi là nội dung cốt lõi trong công tác đào tạo cán bộ. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2002)-07 "Cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đạ hóa đất nước", chủ nhiệm PGS, TS Trần Đình Hoan lần đầu tiên bàn về công tác luân chuyển với tư cách là khâu góp phần đào tạo cán bộ qua thực tiễn. Luân chuyển gắn liền với quy hoạch, và có thể theo 3 hướng: luân chuyển ngang, trên xuống, dưới lên. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi đi và nơi đến của cán bộ luân chuyển đều được nhấn mạnh. Những vấn đề liên quan đến chế độ chính sách hỗ trợ đời sống, điều kiện, phương tiện để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ cũng là nội dung được tổng kết và đề xuất trong Đề tài. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể giúp Luận án hoàn thiện hơn trong giải pháp đổi mới nội dung tạo nguồn CB, CC xã, phần đổi mới công tác luân chuyển tạo nguồn. Tạo nguồn cán bộ nằm trong phạm vi công tác cán bộ, nên có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về nó, sử dụng thuật ngữ “tạo nguồn” trong tên công trình, hoặc phạm vi rộng hơn là “xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó có cán bộ người DTTS, nhưng nhìn chung nội hàm khái niệm “tạo nguồn” chưa được minh định. Tuyệt đại bộ phận các bài báo khoa học hiện nay đều xuất phát từ quan niệm tạo nguồn cán bộ tập trung ở quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn, nên thực trạng và giải pháp cho tạo nguồn cũng hướng chủ yếu về nâng cao chất lượng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiêu biểu có: bài viết “Bộ đội Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” của Thiếu tướng Võ 9 Trọng Việt (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 15-2-2007); “Tạo nguồn cán bộ từ đồng bào dân tộc thiểu số” của Nguyễn Văn Bình (Webside Quảng Nam online, 5-10-2009); “Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã phường ở Đồng Nai” của Thủy Anh (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9-2009); “Hải Phòng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo trẻ” của Lê Xuân Lịch (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 1-2010); “Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” của Bùi Văn Tiếng (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 4/2010) v.v.. Tuy còn hạn hẹp trong quan niệm và giải pháp tạo nguồn, nhưng giá trị của các bài viết cho thấy bức tranh khá đa dạng về thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cùng những mô hình, kinh nghiệm hay, có thể dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề đặt ra trong công tác tạo nguồn cán bộ trên bình diện chung và cho đề tài Luận án nói riêng. Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung tạo nguồn cán bộ cụ thể: Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ” (1998) thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05, TS Đỗ Xuân Định có bài “Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ” bàn về hai cách tạo nguồn: từ xa và trực tiếp. Theo tác giả, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí là cách tạo nguồn từ xa, còn việc đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, sàng lọc là cách tạo nguồn trực tiếp từng loại cán bộ. Thực chất của tạo nguồn trực tiếp là “sự tiếp tục đào tạo trong thực tiễn”, là “sự đào tạo trong quá trình sử dụng”, vì vậy cần sử dụng đúng chuyên ngành đào tạo, bố trí công việc thích hợp, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong tạo nguồn, không chỉ đòi hỏi cao về đạo đức, năng lực công tác cán bộ, mà phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, khuyến khích lợi ích vật chất, bởi nó “như là một tất yếu đi đôi với những giá trị tinh thần và việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng”. Những tiếp cận mang tính khái quát này là gợi mở quan trọng cho
Luận văn liên quan