Tổn thương bỏng xuất hiện từ khi loài người tiếp xúc và dùng lửa
(khoảng 500.000 năm trước công nguyên). Ban đầu là bỏng do nhiệt khô khi
tiếp xúc lửa, đến khi con người biết làm đồ gốm và đun nấu, bỏng do nhiệt ướt
xuất hiện. Đây là hai loại bỏng chủ yếu gặp từ thời tiền sử cho đến tận thời đại
văn minh hiện nay. Chấn thương bỏng thường gặp trong lao động, sản xuất
cũng như trong sinh hoạt hàng ngày và là một trong những vấn đề y tế công
cộng trên toàn cầu phải quan tâm do gánh nặng bệnh tật, thương tích sau bỏng
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Kết quả dự án gánh nặng
bệnh tật toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới đã cho thấy bỏng là nhân tố góp
phần quan trọng vào tổng số thương vong do bệnh tật ở trẻ em tại các quốc gia
có thu nhập thấp và trung bình ở các khu vực châu Phi, Đông Nam Á và phía
Đông vùng biển Địa Trung Hải [114],[115].
Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác phòng ngừa, điều trị và
phục hồi chức năng cho bệnh nhân bỏng, nhưng trong những thập kỷ gần đây
khi khoa học công nghiệp càng phát triển, xã hội loài người càng văn minh thì
các thương tổn về bỏng lại càng phức tạp. Nếu như bỏng lửa đóng góp vào đa
số các ca tử vong liên quan đến bỏng ở trẻ em thì bỏng nước nóng, bỏng tiếp
xúc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thương tật. Bỏng đã tạo ra
một gánh nặng kinh tế đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe [118], [119].
Việt Nam là một trong những nước nằm ở vùng khu vực có tỷ lệ bị
bỏng cao [118]. Tình hình tai nạn do bỏng cũng ngày càng phức tạp. Tổn
thương bỏng để lại di chứng nặng nề về sức khoẻ, chức năng, thẩm mỹ và tinh
thần với tỉ lệ lên đến 30 - 35% có nhu cầu cấp thiết được điều trị để phục hồi
hình thể, chức năng, thẩm mỹ và tinh thần. Với hơn 80% nạn nhân bỏng sống
ở các gia đình có thu nhập thấp, 70% nạn nhân bỏng tập trung ở những khu2
vực nông thôn và miền núi, hiện đang còn rất nhiều bệnh nhân mang sẹo di
chứng bỏng có nhu cầu cần được can thiệp phẫu thuật, phục hồi chức năng và
thẩm mỹ trong cộng đồng. Việc đánh giá tình hình người bị sẹo di chứng
bỏng, khảo sát các yếu tố liên quan đến các loại tổn thương này đã được một
số nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập ở tầm chuyên ngành quốc gia. Tuy
nhiên, những nghiên cứu về bỏng ở khu vực miền núi còn rất ít và chưa đề
cập đến một cách đầy đủ và có hệ thống. Với mong muốn trả lời câu hỏi
“Việc huy động nguồn lực cộng đồng hỗ trợ tại chỗ để điều trị phẫu thuật và
phục hồi chức năng cho đối tượng bị sẹo di chứng bỏng ở miền núi có hiệu
quả hay không?”, chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng người bị sẹo di
chứng bỏng và kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham
gia tổ chức phẫu thuật, phục hồi chức năng tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc”,
với 3 mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học người bị sẹo di chứng bỏng tại 3 tỉnh
miền núi phía bắc Việt Nam năm 2013 - 2014.
2. Khảo sát nhu cầu và khả năng tiếp cận dịch vụ phẫu thuật và phục hồi
chức năng của người bị sẹo di chứng bỏng tại 3 tỉnh nói trên.
3. Đánh giá kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham gia tổ
chức phẫu thuật, phục hồi chức
163 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 622 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực trạng người bị sẹo di chứng bỏng và kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham gia tổ chức phẫu thuật, phục hồi chức năng tại 3 tỉnh miền núi phía bắ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương bỏng xuất hiện từ khi loài người tiếp xúc và dùng lửa
(khoảng 500.000 năm trước công nguyên). Ban đầu là bỏng do nhiệt khô khi
tiếp xúc lửa, đến khi con người biết làm đồ gốm và đun nấu, bỏng do nhiệt ướt
xuất hiện. Đây là hai loại bỏng chủ yếu gặp từ thời tiền sử cho đến tận thời đại
văn minh hiện nay. Chấn thương bỏng thường gặp trong lao động, sản xuất
cũng như trong sinh hoạt hàng ngày và là một trong những vấn đề y tế công
cộng trên toàn cầu phải quan tâm do gánh nặng bệnh tật, thương tích sau bỏng
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Kết quả dự án gánh nặng
bệnh tật toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới đã cho thấy bỏng là nhân tố góp
phần quan trọng vào tổng số thương vong do bệnh tật ở trẻ em tại các quốc gia
có thu nhập thấp và trung bình ở các khu vực châu Phi, Đông Nam Á và phía
Đông vùng biển Địa Trung Hải [114],[115].
Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác phòng ngừa, điều trị và
phục hồi chức năng cho bệnh nhân bỏng, nhưng trong những thập kỷ gần đây
khi khoa học công nghiệp càng phát triển, xã hội loài người càng văn minh thì
các thương tổn về bỏng lại càng phức tạp. Nếu như bỏng lửa đóng góp vào đa
số các ca tử vong liên quan đến bỏng ở trẻ em thì bỏng nước nóng, bỏng tiếp
xúc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thương tật. Bỏng đã tạo ra
một gánh nặng kinh tế đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe [118], [119].
Việt Nam là một trong những nước nằm ở vùng khu vực có tỷ lệ bị
bỏng cao [118]. Tình hình tai nạn do bỏng cũng ngày càng phức tạp. Tổn
thương bỏng để lại di chứng nặng nề về sức khoẻ, chức năng, thẩm mỹ và tinh
thần với tỉ lệ lên đến 30 - 35% có nhu cầu cấp thiết được điều trị để phục hồi
hình thể, chức năng, thẩm mỹ và tinh thần. Với hơn 80% nạn nhân bỏng sống
ở các gia đình có thu nhập thấp, 70% nạn nhân bỏng tập trung ở những khu
2
vực nông thôn và miền núi, hiện đang còn rất nhiều bệnh nhân mang sẹo di
chứng bỏng có nhu cầu cần được can thiệp phẫu thuật, phục hồi chức năng và
thẩm mỹ trong cộng đồng. Việc đánh giá tình hình người bị sẹo di chứng
bỏng, khảo sát các yếu tố liên quan đến các loại tổn thương này đã được một
số nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập ở tầm chuyên ngành quốc gia. Tuy
nhiên, những nghiên cứu về bỏng ở khu vực miền núi còn rất ít và chưa đề
cập đến một cách đầy đủ và có hệ thống. Với mong muốn trả lời câu hỏi
“Việc huy động nguồn lực cộng đồng hỗ trợ tại chỗ để điều trị phẫu thuật và
phục hồi chức năng cho đối tượng bị sẹo di chứng bỏng ở miền núi có hiệu
quả hay không?”, chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng người bị sẹo di
chứng bỏng và kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham
gia tổ chức phẫu thuật, phục hồi chức năng tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc”,
với 3 mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học người bị sẹo di chứng bỏng tại 3 tỉnh
miền núi phía bắc Việt Nam năm 2013 - 2014.
2. Khảo sát nhu cầu và khả năng tiếp cận dịch vụ phẫu thuật và phục hồi
chức năng của người bị sẹo di chứng bỏng tại 3 tỉnh nói trên.
3. Đánh giá kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham gia tổ
chức phẫu thuật, phục hồi chức năng cho người bị sẹo di chứng bỏng
tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm liên quan đến bỏng
1.1.1.1. Khái niệm bỏng
Bỏng là tổn thương ở da hoặc các mô do nhiệt, bức xạ nhiệt, phóng xạ,
điện hoặc hóa chất gây ra. Hầu hết các tổn thương bỏng thường chỉ ở da,
nhưng cũng có trường hợp bỏng sâu tới các lớp dưới da như gân, cơ, xương
và các tạng. Nếu bị bỏng rộng, diện tích độ sâu lớn sẽ gây ra rối loạn các cơ
quan trong cơ thể, tạo nên bệnh bỏng. Năm 1938, Wilson W.C là người đầu
tiên đặt danh từ bệnh bỏng với định nghĩa “Bệnh bỏng là những phản ứng
bệnh lý chung xuất hiện có tính chất quy luật với chấn thương bỏng” [41].
1.1.1.2. Hoàn cảnh và tác nhân gây bỏng
Bỏng có thể gặp trong sinh hoạt, học tập, trong lao động sản xuất, khi
vui chơi giải trí và đặc biệt là sản xuất công nghiệp.... Bỏng là một tổn thương
luôn đi cùng với các thương vong trong chiến tranh và thảm họa cháy nổ. Tác
nhân gây bỏng gồm 4 loại chính là sức nhiệt, luồng điện, hóa chất và bức xạ
các loại [54].
Bỏng do sức nhiệt được phân chia thành 2 nhóm là bỏng do nhiệt khô
và nhiệt ướt. Bỏng do nhiệt khô hay gặp nhất là do lửa, tiếp đến là do các vật
rắn nóng. Bỏng do nhiệt khô thường ở nhiệt độ rất cao, có thể tới hàng nghìn
độ và hay liên quan đến các vụ cháy nổ nên có thể kèm theo bỏng đường hô
hấp. Bỏng do nhiệt ướt thường nhiệt độ gây bỏng không cao, khoảng 50-
2000C. Tác nhân có thể gặp là nước sôi, chất lỏng nóng như dầu, mỡ. Bỏng
điện là do khi dòng điện đi qua cơ thể, cơ thể thành dây dẫn, điện năng sẽ
chuyển thành nhiệt năng làm đông vón Protein, hoại tử mô tế bào nên tổn
thương bỏng điện thường rất phức tạp [60]. Bỏng do hoá chất bao gồm các
4
chất oxy hóa, chất khử, chất ăn mòn, các chất gây độc cho nguyên sinh chất,
các chất làm khô, làm rộp da, các hóa chất acid, kiềm mạnh. Cơ chế gây bỏng
hóa chất là do kết quả của sự tiếp xúc da, niêm mạc với hóa chất gây phản
ứng hóa học sinh nhiệt, làm tổn thương các thành phần của tế bào và ngoại
bào. Hơn nữa, hóa chất ngấm sâu xuống tổ chức, hấp thu vào máu gây nhiễm
độc cho cơ thể [60]. Bỏng do bức xạ bao gồm nhiều loại như tia hồng ngoại,
tia lửa điện, tia laser, tia xạ của bom, tia xạ điều trị... [60].
1.1.1.3. Độ sâu bỏng
Trên thế giới, tại Việt Nam tùy cách chia khác nhau nhưng chủ yếu tập
trung chia độ sâu tổn thương bỏng ở 2 mức nông và sâu. Thế giới phân chia độ
sâu của bỏng theo 3 mức I, II, III, tại Việt Nam phân chia theo 5 mức từ I đến
V theo Viện bỏng Quốc Gia. Bỏng nông là tổn thương bỏng ở mức độ I, II
(theo phân loại thế giới) và độ I, II, III (theo phân loại của Viện bỏng Quốc Gia
Việt Nam). Bỏng nông là các tổn thương bỏng đến lớp trung bì da, tiến triển tự
liền, không phải ghép da, Độ I, II không để lại sẹo, độ III có sẹo nông ít gây
biến dạng. Bỏng sâu (độ III theo phân độ thế giới và độ IV, V theo phân độ của
Viện bỏng Quốc Gia) gây tổn thương toàn bộ lớp da, tiến triển không tự liền,
phải ghép da và để lại sẹo di chứng bỏng gây các biến dạng chi thể [54].
1.1.2. Sẹo di chứng bỏng
1.1.2.1. Quá trình liền vết bỏng và hình thành sẹo di chứng bỏng
Tùy thuộc vào độ sâu của bỏng, sức đề kháng của cơ thể, vết bỏng tiến
triển từ giai đoạn cấp tính, tái tạo đến hình thành sẹo. Quá trình hình thành
sẹo bắt đầu từ khi liền vết bỏng, kéo dài đến 12-24 tháng hoặc hơn. Bỏng biểu
bì chỉ gây rối loạn sắc tố da; Bỏng trung bì khi liền vết bỏng phải trải qua quá
trình biểu mô nên có sẹo nhưng mềm mại; Bỏng toàn bộ da hoặc sâu hơn, để
lại sẹo với các hình thái khác nhau [54],[55].
1.1.2.2. Phân loại sẹo di chứng bỏng
Có 6 nhóm di chứng bỏng chủ yếu là sẹo đơn thuần (sẹo xơ, quá phát
5
và sẹo lồi); sẹo co kéo tại các vùng khớp vận động; sẹo dính hình thành do
sự phát triển của tổ chức hạt gây dính các bộ phận chi thể kế cận trong quá
trình liền sẹo; các di chứng của cơ quan: mất nhãn cầu, biến dạng mi,
khuyết mũi, mất đoạn chi; các rối loạn dinh dưỡng tại chỗ: thay đổi sắc tố
da vùng sẹo, loét loạn dưỡng; ung thư hóa trên nền sẹo bỏng: thường gặp ở
vùng loét lâu liền hay những vùng sẹo lâu năm (>5 năm) co kéo ở cơ quan
vận động [54], [55]. Những di chứng này đều ít nhiều ảnh hưởng biến dạng
hình thể, thẩm mỹ, gây hạn chế chức năng vận động của chi thể, rối loạn
cảm giác đau, ngứa.
1.1.2.3. Ảnh hưởng xấu do sẹo di chứng bỏng
Sẹo di chứng bỏng gây ra các ảnh hưởng xấu liên quan đến hạn chế vận
động, gây ảnh hưởng thẩm mỹ và có thể có rối loạn cảm giác, thường kết hợp
với nhau ở một hay nhiều vị trí. Tùy theo độ sâu tổn thương bỏng và hiệu quả
các biện pháp điều trị, tổn thương bỏng liền sẹo để lại những di chứng về
chức năng, hình thể, cảm giác và tâm lý ảnh hưởng xấu đến khả năng hòa
nhập cộng đồng của bệnh nhân. Có thể chia ra 3 loại ảnh hưởng chính của sẹo
bỏng gây ra cho bệnh nhân [55]:
* Ảnh hưởng về vận động: Sẹo di chứng bỏng co kéo gây biến dạng,
đặc biệt trên các phần khớp làm hạn chế vận động, cản trở các động tác di
chuyển, khó khăn trong các hoạt động sinh hoạt, học tập, lao động sản xuất.
* Ảnh hưởng về thẩm mỹ: Sẹo do bỏng ở mặt và các vùng da hở khác
(cổ, cẳng bàn tay...) gây biến dạng hình thể làm cho bệnh nhân khó khăn và
ngại tiếp xúc với xã hội.
* Rối loạn cảm giác: Ngoài các tác động của sẹo biến dạng, sẹo bỏng
còn gây đau buốt khi trời lạnh, gây ngứa, nhất là vào thời tiết nắng nóng (đặc
biệt ở các sẹo lồi, phì đại, sẹo trợt loét). Những tác động tiêu cực này cản trở
bệnh nhân từ trong sinh hoạt thường ngày đến việc hòa nhập xã hội trong các
6
hoạt động sống.
* Kết hợp các ảnh hưởng vận động, thẩm mỹ, cảm giác: Người mang
sẹo sau bỏng thường phải chịu cả ba ảnh hưởng xấu gây hạn chế khả năng,
chức năng sống và hạn chế cơ hội của họ tham gia vào cuộc sống xã hội.
1.1.3. Điều trị sẹo di chứng bỏng
1.1.3.1. Các phương pháp điều trị sẹo di chứng bỏng
Nội khoa: Điều trị dự phòng ngay khi bắt đầu quá trình liền sẹo nhằm
tránh sẹo xấu và giảm các di chứng hạn chế vận động và chức năng do sẹo di
chứng gây ra [55]. Các biện pháp điều trị bao gồm sử dụng thuốc nhóm
corticoid, collagen (mỡ, gel. tiêm), vật lý trị liệu, băng ép.
Ngoại khoa: Tùy theo mức độ sẹo di chứng bỏng gây biến dạng ảnh
hưởng hạn chế các chức năng sống của bệnh nhân sau bỏng có các chỉ định
phẫu thuật nhằm sửa chữa những biến dạng do sẹo di chứng bỏng gây ra,
phục hồi hình thể giải phẫu và chức năng của các bộ phận cơ thể [55]. Bệnh
nhân cần được phẫu thuật không thể trì hoãn với sẹo gây co kéo biến dạng
mắt, mũi, miệng liên quan trực tiếp đến sự sống của bệnh nhân. Thực hiện
phẫu thuật trì hoãn cho bệnh nhân khi có liên quan đến việc giải quyết các
rối loạn chức năng do sẹo gây co kéo biến dạng chi thể. Phẫu thuật cân nhắc
khi vấn đề thẩm mỹ được đặt lên trên yêu cầu giải quyết chức năng [55].
1.1.3.2. Phẫu thuật tạo hình
* Khái niệm phẫu thuật tạo hình: Phẫu thuật tạo hình là phẫu thuật nhằm sửa
chữa những biến dạng bẩm sinh hay mắc phải do quá trình bệnh lý hay di
chứng chấn thương, vết thương; phục hồi hình thể giải phẫu và chức năng của
các bộ phận trên cơ thể [46], [55].
* Một số phương pháp phẫu thuật tạo hình sẹo sau bỏng
Có nhiều phương pháp phẫu thuật như:
+ Cắt sẹo khâu kín được áp dụng cho các sẹo kích thước nhỏ, mức độ
7
co kéo, biến dạng ít, ở các vùng ít ảnh hưởng vận động.
+ Ghép da dày hoặc xẻ đôi được chỉ định rộng rãi cho hầu hết các khuyết
hổng da lớn khó xoay chuyển vạt để che phủ được tại hầu hết các vị trí cơ thể.
+ Phương pháp tạo các vạt da cân ngẫu nhiên (tại chỗ, lân cận, từ xa)
dùng để ứng dụng sửa biến dạng ở các khớp chi thể (cổ, bàn ngón tay).
+ Phương pháp tạo các vạt da có cuống mạch hằng định dùng để che
phủ các vùng thẩm mỹ, chức năng tinh tế như mặt, vú, bàn tay, bàn chân.
Còn có nhiều phương pháp khác nhưng tại tuyến cơ sở thường chỉ áp
dụng 3 phương pháp cơ bản: khâu kín, ghép da và chuyển vạt tại chỗ. Việc
phẫu thuật thường phải bao gồm cả việc phục hồi các tổ chức sâu (cân, gân, ổ
khớp, xương) và tiến hành từng bước tránh những thay đổi đột ngột tại
vùng tổn thương, đồng thời kết hợp với các kỹ thuật băng nẹp để duy trì, tăng
dần các mức độ nắn dãn [55].
1.2. Thực trạng bỏng và người bị sẹo di chứng bỏng
1.2.1. Thực trạng mắc bỏng
1.2.1.1. Thực trạng mắc bỏng trên thế giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới, bỏng đã trở thành một vấn đề y tế công cộng
toàn cầu, với trên 10 triệu người bị thương tích bỏng và hơn 300.000 ca tử
vong mỗi năm. Đa số các trường hợp bỏng xảy ra ở những nước có thu nhập
thấp và trung bình. Đặc biệt, gần một nửa số trường hợp bỏng trên thế giới nằm
ở khu vực Đông Nam Á. Phần lớn các trường hợp tử vong do bỏng xảy ra ở các
nước đang phát triển. Bỏng là nguyên nhân thứ chín gây nên gánh nặng bệnh
tật và chấn thương toàn cầu, bao gồm nằm viện dài ngày, tàn phế dẫn đến kỳ
thị, hắt hủi [88],[93],[95],[117].
Nghiên cứu đặc điểm chấn thương bỏng tại cộng đồng nông thôn Ấn Độ,
kết quả cho thấy tỷ lệ bỏng tích lũy tại cộng đồng trong 6 tháng là 8,4%, tỷ lệ
mắc ở nữ 54,7% cao hơn so với nam giới là 45,3%. Hai nhóm tuổi có tỷ lệ
8
bỏng cao nhất là 21- 30 tuổi và 31- 40 tuổi [104]. Một nghiên cứu tại Tây
Bengal Ấn Độ cho biết 83% số bệnh nhân bỏng là nữ giới, nhóm tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất là 21-30 tuổi (35,3%), tiếp đến là nhóm 31-40 tuổi (20,5%), nhóm
1-10 tuổi (16,2%). Có 87% số trường hợp bỏng do tai nạn nhưng cũng có 10%
do tự tử [105]. Phân tích dữ liệu về bỏng trong giai đoạn 10 năm từ 2001-2010
tại miền Trung Ấn Độ cũng cho thấy: Tỷ lệ mắc bỏng ở nữ giới cao gần gấp
đôi so với nam giới (66,8% và 38,2%) [70].
Nghiên cứu dịch tễ học chấn thương bỏng ở Singapore giai đoạn 1995-
2003 cho thấy, tỷ lệ thương tích bỏng phải nhập viện là 0,07/1000 dân, tỷ lệ
nam/nữ là 2,2 và độ tuổi trung bình là 32,5 tuổi. Tỷ lệ bỏng trẻ em đã giảm so
với thập kỉ 80 nhưng nguyên nhân bỏng do hóa chất lại tăng lên [111]. Một số
nghiên cứu khác tại Singapore cũng cho kết quả tương tự về nguyên nhân gây
bỏng và cơ cấu bỏng [77],[99].
Thương tích là một vấn đề y tế công cộng quan trọng trong khu vực
Đông Địa Trung Hải, là một trong những nguyên nhân hàng đầu của thương
tật và tử vong. Nghiên cứu của Nasih Othman cho thấy tỷ lệ mắc mới của
bỏng dao động từ 112 đến 518/100.000 dân mỗi năm. Nạn nhân bỏng chủ yếu
gặp ở nhóm trẻ em dưới 5 tuổi. Giám sát thương tích ở Iran đã phát hiện bỏng
là nguyên nhân phổ biến nhất của các thương tích không chủ ý liên quan đến
nhà chiếm 40% số người bị thương trong tất cả lứa tuổi [100]. Phân tích về
tình hình bệnh nhân bỏng nhập viện tại Isfahan từ 2009-2011, Hamid
Moghadasi cho thấy bỏng gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 15-30 (chiếm 41,5%).
Tỷ lệ bỏng ở nam cao hơn nữ 1,6 lần nhưng tỷ lệ tử vong do bỏng ở nữ lại cao
gấp đôi so với nam giới [97]. Karimi H nghiên cứu về dịch tễ học của bỏng tại
Iran từ 2009-2010 cho thấy tuổi trung bình 30,2±19,1 tuổi, nhóm 25-35 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất (28,6% ở nam và 24,7% ở nữ), tiếp đến là nhóm dưới 15
tuổi, nữ chiếm 41,9% [91],[92].
Tại Trung Quốc chấn thương bỏng là một trong những vấn đề sức khỏe
9
đặc biệt quan trọng, nhất là với lứa tuổi nhỏ [85],[89]. Nghiên cứu của Zhai
H. về đặc điểm bỏng trẻ em tại Liêu Ninh Trung Quốc từ 2002-2011 cho thấy
bỏng trẻ em thường gặp ở nhóm dưới 3 tuổi. Bỏng do nhiệt ướt có xu hướng
giảm dần khi trẻ lớn lên nhưng thương tích do bỏng lửa, pháo và điện lại tăng
dần theo tuổi và hầu hết đều gặp ở nam giới ở khu vực nông thôn [120]. Tác
giả Kai-Yang L đánh giá tổng quan nghiên cứu về bỏng trẻ em giai đoạn
2000-2005 tại Trung Quốc cho thấy thương tích do bỏng trong số trẻ em nhập
viện dao động từ 22,5-54,6% [89].
Oladele nghiên cứu tổng quan về bỏng tại Nigeria trong 40 năm từ
1969 đến 2009 cho biết bỏng vẫn là một gánh nặng bệnh tật đáng kể do hậu
quả từ các di chứng tàn tật của bỏng gây nên [98]. Ở trẻ em, bỏng là nguyên
nhân phổ biến thứ tư của chấn thương, thường xảy ra do vô tình tiếp xúc với
chất lỏng nóng hoặc ngọn lửa trần. Tuy thế, trong những năm gần đây, các
thương tích bỏng xảy ra trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ cũng đã
ngày càng trở nên phổ biến hơn [98].
Nghiên cứu tại Chile về đặc điểm dịch tễ học của bỏng ở trẻ em và
thanh thiếu niên khu vực thành thị cho thấy bàn tay là vị trí bỏng hay gặp nhất
ở lứa tuổi này (46,7%). Mặc dù chỉ có 8,4% số bệnh nhân phải nhập viện
nhưng vẫn có tới 30,2% số bệnh nhân có sẹo sau bỏng [109]. Còn một nghiên
cứu khác của Solis tại Chile đánh giá tỷ lệ hiện mắc và mới mắc bỏng năm
2011 ở quần thể đối tượng dưới 20 tuổi cho thấy tỷ lệ bỏng mới mắc là
2,02%. Tỷ lệ mắc tích lũy là 13,5%, tỷ lệ mắc ở trẻ nam dưới 5 tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất là 2,76% [110].
Nghiên cứu bỏng trẻ em của Kun Zou tại Anh cho thấy nguyên nhân
chính là do bỏng nước tại gia đình, liên quan nhiều đến tính an toàn của thực
phẩm nóng, vòi nước nóng sử dụng trong gia đình [121]. Còn nghiên cứu dữ
liệu thống kê của 181 bệnh nhân bỏng tại Anh từ 2003-2011 cho thấy số
10
trường hợp bỏng vẫn có xu hướng tăng, nếu như năm 2003 chỉ ghi nhận có
5.500 trường hợp bỏng nhập viện thì con số này đã tăng lên 13.000 vào năm
2011[81]. Tần suất mắc bỏng trên dân số dao động từ 0,11 đến 19,6/1000 dân
trong giai đoạn 2003-2011 [112].
Nele Brusselares nghiên cứu tổng quan về bỏng nặng điều trị tại bệnh
viện của các nước khu vực châu Âu từ giai đoạn 1985 đến 2009, kết quả cho
thấy: bỏng là nguyên nhân thương tích gây tử vong đứng hàng thứ 4 sau tai
nạn giao thông, tai nạn không chủ ý và tự tử. Tỷ lệ hàng năm của bệnh nhân
bị bỏng nặng chiếm khoảng từ 0,2 - 2,9/10.000 dân. Tỷ lệ bỏng ở trẻ em cao
hơn, tỷ lệ mắc lên đến 8,3/10.000 trẻ em dưới 5 tuổi trong một nghiên cứu ở
Na Uy và 8,5 /10.000 cho tất cả trẻ em dưới 15 tuổi trong một nghiên cứu ở
Séc. Tỷ lệ mắc bỏng gặp cao hơn ở nhóm đối tượng có mức sống thấp và
nhóm dân tộc thiểu số. Xu hướng chung cho thấy tỷ lệ bỏng đã giảm trong 30
năm qua nhưng mức độ giảm chậm hơn kể từ đầu những năm 1990. Trong đa
số các báo cáo, tỷ lệ bỏng giảm ở tất cả các lứa tuổi nhưng trong một nghiên
cứu của Đan Mạch thì các tác giả cho thấy chỉ có tỷ lệ bỏng ở trẻ em dưới 5
tuổi là giảm. Tuy thế, cũng có hai nghiên cứu ở Iceland và Séc báo cáo cho
thấy tỷ lệ ngày càng tăng của bỏng trẻ em với nguyên nhân do tăng sử dụng
các thiết bị nước nóng [75].
1.2.1.2. Thực trạng mắc bỏng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tác giả Thái Quang Hùng thực hiện nghiên cứu chấn thương
trên đối tượng bệnh nhân bị bỏng nhập bệnh viện đa khoa tỉnh Đăklăk trong
khoảng thời gian từ 1998 đến 2002 cho thấy tỷ suất mắc chấn thương do bỏng là
9,6/105 người-năm; nam bị bỏng nhiều hơn nữ, tỷ lệ nam: nữ là 1,6: 1. Tỷ suất
chấn thương do bỏng ở nhóm tuổi 0-9 là 21,3/105 người-năm; ở nhóm tuổi 10-19
là 3,9/105 người- năm; ở nhóm tuổi 20-29 là 5,9/105 người- năm; ở nhóm tuổi
30-39 là 5,0/105 người- năm; ở nhóm tuổi 40-49 là 4,5/105 người- năm; ở nhóm
11
tuổi 50-59 là 6,1/105 người- năm; ở nhóm tuổi 60-69 là 3,0/105 người- năm; ở
nhóm tuổi 70-79 là 2,2/105 người- năm; ở nhóm tuổi 80 là 7,3/105 người-năm.
Nhóm tuổi dưới 10 là nhóm có tần số bị bỏng cao nhất (65,1%) [24].
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng về dịch tễ học bỏng do tai nạn lao
động trên cơ sở dữ liệu của 1.411 bệnh nhân bỏng từ 16 tuổi trở lên vào Viện
Bỏng Quốc gia điều trị trong năm 2008 cho thấy: bỏng do tai nạn lao động
chiếm 27%. Có 66% bệnh nhân bỏng đã không được làm lạnh bằng nước sau
bỏng. 43% bệnh nhân bỏng do tai nạn lao động đã không nhận được điều trị
hoặc nhận được một điều trị không đúng của tuyến trước. 37% bệnh nhân
không được chẩn đoán diện tích và độ sâu vết thương bỏng, 26% bệnh nhân
nhận được một chẩn đoán không phù hợp. Như vậy, có thể thấy tuyến y tế cơ
sở còn nhiều hạn chế trong chăm sóc và điều trị bệnh nhân bỏng [22].
Nguyễn Viết Lượng tiến hành điều tra, khảo sát tình hình dịch tễ học
bỏng trên cả nước trong 2 năm liên tục từ 2008-2009. Kết quả cho thấy hàng
năm số nạn nhân bỏng trung bình ở Việt Nam ước tính khoảng 844.000
người, tương đương với khoảng 1% dân số, trong đó trẻ em chiếm khoảng
50%. Tuy nhiên, số nạn nhân bỏng được điều trị tại các cơ sở y tế công lập
từ tuyến huyện trở lên chỉ chiếm gần 50% số nạn nhân bị bỏng [38]. Còn
trong giai đoạn 5 năm từ 2005-2009, tác giả cho thấy tỷ lệ bỏng gặp ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa cao hơn thành thị chiếm tới 73%. Bỏng do sinh hoạt
chiếm tỷ lệ cao nhất (51,9%), bỏng do tai nạn lao động chiếm 37,8% [55].
Đánh giá về đặc điểm bỏng hàng loạt điều trị tại viện Bỏng Quốc gia, tác
giả Nguyễn Như Lâm và cộng sự cho biết tai nạn lao động chiếm tới 2/3 tổng số
vụ. Đối tượng bệnh nhân bỏng là công nhân chiếm