HIV/AIDS và bệnh lao là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng đã và
đang được quan tâm trên toàn thế giới. Mặc dù hai bệnh này có tác nhân gây
bệnh, cơ chế lây truyền cũng như nhóm đối tượng nguy cơ khác nhau, nhưng
đã tác động tương tác làm tăng gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc gia trên thế
giới. HIV đã làm cho chiến lược phòng chống bệnh lao ở nhiều quốc gia bị
thất bại và ngược lại, bệnh lao là nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm
người nhiễm HIV [115].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012 có khoảng
một phần ba trong số 34 triệu người nhiễm HIV trên toàn thế giới bị mắc lao
[115]. Năm 2011, ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao và 1,1 triệu người
(13%) nhiễm HIV mắc lao mới; 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao, trong đó
ước tính 430.000 triệu người (24%) đồng nhiễm HIV [89], [113]. Bệnh lao
luôn đồng hành với tình trạng nhiễm HIV, là một trong những bệnh nhiễm
trùng cơ hội. Trên 30% số người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao 21
- 34 lần so với người không nhiễm HIV và gần 50% số người nhiễm
HIV/AIDS bị chết do lao [71], [115].
Việt Nam, mặc dù có những cam kết mạnh mẽ và triển khai các chương
trình dự phòng, nhưng sự lan truyền của HIV vẫn còn phức tạp, nhất là ở các
nhóm quần thể có hành vi nguy cơ cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế, kể từ
khi phát hiện trường hợp HIV đầu tiên năm 1990 cho đến 31/12/2012, số
trường hợp hiện còn sống: nhiễm HIV là 208.866, bệnh nhân AIDS là 59.839
và đã tử vong do AIDS là 62.183 trường hợp. Số liệu giám sát trọng điểm, tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 13,4% (2011) và 11,6%
(2012), hiện vẫn là nhóm nguy cơ cao lây truyền HIV [8], [10], [14]. Bên
cạnh HIV, bệnh lao vẫn còn là gánh nặng về sức khỏe, y tế và xã hội. Theo số
liệu điều tra của Dự án phòng, chống lao quốc gia, trên 40% dân số Việt Nam
bị nhiễm lao. Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số lượng bệnh nhân
(BN) lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có lao đa kháng và siêu
3
kháng cao [89]. Hàng năm ước tính có thêm 180.000 BN lao, trong đó có
khoảng 6.000 BN lao đa kháng và khoảng 7.400 BN HIV/lao. Tuy nhiên
chúng ta mới chỉ phát hiện được khoảng 60% số BN ước tính trong khoảng
trên dưới 100.000 BN mỗi năm [3], [6].
Khu vực Tây Nguyên gồm tỉnh Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon
Tum năm 1993 phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên, đến 31/12/2012,
số trường hợp hiện nhiễm HIV là 3.395 trường hợp, bệnh nhân AIDS là 1.400
và 765 trường hợp đã tử vong do AIDS. Phân bố HIV trên nhóm NCMT là
38,2% (2011), 37,6% (2012) phân bố BN lao nhiễm HIV là 3,5% (2011),
3,4% (2012) [17], [37].
127 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
PHẠM THỌ DƯỢC
THỰC TRẠNG NHIỄM HIV, BỆNH LAO AFB (+) VÀ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP
DỰ PHÒNG Ở NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY
TẠI TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Bùi Đức Dương
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Yến
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
HIV/AIDS và bệnh lao là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng đã và
đang được quan tâm trên toàn thế giới. Mặc dù hai bệnh này có tác nhân gây
bệnh, cơ chế lây truyền cũng như nhóm đối tượng nguy cơ khác nhau, nhưng
đã tác động tương tác làm tăng gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc gia trên thế
giới. HIV đã làm cho chiến lược phòng chống bệnh lao ở nhiều quốc gia bị
thất bại và ngược lại, bệnh lao là nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm
người nhiễm HIV [115].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012 có khoảng
một phần ba trong số 34 triệu người nhiễm HIV trên toàn thế giới bị mắc lao
[115]. Năm 2011, ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao và 1,1 triệu người
(13%) nhiễm HIV mắc lao mới; 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao, trong đó
ước tính 430.000 triệu người (24%) đồng nhiễm HIV [89], [113]. Bệnh lao
luôn đồng hành với tình trạng nhiễm HIV, là một trong những bệnh nhiễm
trùng cơ hội. Trên 30% số người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao 21
- 34 lần so với người không nhiễm HIV và gần 50% số người nhiễm
HIV/AIDS bị chết do lao [71], [115].
Việt Nam, mặc dù có những cam kết mạnh mẽ và triển khai các chương
trình dự phòng, nhưng sự lan truyền của HIV vẫn còn phức tạp, nhất là ở các
nhóm quần thể có hành vi nguy cơ cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế, kể từ
khi phát hiện trường hợp HIV đầu tiên năm 1990 cho đến 31/12/2012, số
trường hợp hiện còn sống: nhiễm HIV là 208.866, bệnh nhân AIDS là 59.839
và đã tử vong do AIDS là 62.183 trường hợp. Số liệu giám sát trọng điểm, tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 13,4% (2011) và 11,6%
(2012), hiện vẫn là nhóm nguy cơ cao lây truyền HIV [8], [10], [14]. Bên
cạnh HIV, bệnh lao vẫn còn là gánh nặng về sức khỏe, y tế và xã hội. Theo số
liệu điều tra của Dự án phòng, chống lao quốc gia, trên 40% dân số Việt Nam
bị nhiễm lao. Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số lượng bệnh nhân
(BN) lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có lao đa kháng và siêu
3
kháng cao [89]. Hàng năm ước tính có thêm 180.000 BN lao, trong đó có
khoảng 6.000 BN lao đa kháng và khoảng 7.400 BN HIV/lao. Tuy nhiên
chúng ta mới chỉ phát hiện được khoảng 60% số BN ước tính trong khoảng
trên dưới 100.000 BN mỗi năm [3], [6].
Khu vực Tây Nguyên gồm tỉnh Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon
Tum năm 1993 phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên, đến 31/12/2012,
số trường hợp hiện nhiễm HIV là 3.395 trường hợp, bệnh nhân AIDS là 1.400
và 765 trường hợp đã tử vong do AIDS. Phân bố HIV trên nhóm NCMT là
38,2% (2011), 37,6% (2012) phân bố BN lao nhiễm HIV là 3,5% (2011),
3,4% (2012) [17], [37].
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi cao nguyên trung phần, cũng hội đủ và
tiềm ẩn các đặc điểm về HIV và bệnh lao trên người nhiễm HIV. Lũy tích từ
1993 đến 31/12/2012 ghi nhận số trường hợp nhiễm HIV còn sống được báo
cáo là 1.520 người, trong đó 623 người chuyển sang AIDS và 351 người đã tử
vong do AIDS. Phân bố nhiễm HIV trên nhóm đối tượng NCMT là 43,55%,
BN lao là 3,1% [17], [35].
Các yếu tố liên quan tới nhiễm HIV và bệnh lao có sự tương tác qua lại
giữa 2 tình trạng bệnh này. Nhiễm HIV làm cơ thể bị suy giảm miễn dịch, suy
giảm miễn dịch dễ bị nhiễm và mắc bệnh lao [58], đặc biệt ở các đối tượng có
nguy cơ cao. Xác định được các yếu tố liên quan là cơ sở khoa học để đưa ra
bằng chứng cho công tác xây dựng kế hoạch dự phòng và khống chế đại dịch
HIV/AIDS cũng như bệnh lao phù hợp với bối cảnh của từng địa phương và
từng quốc gia. Để có được bức tranh tổng thể về hai vấn đề sức khỏe cộng
cộng, đồng thời với sự can thiệp chủ động, nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc và tử
vong, điều quan trọng là hiểu rõ các yếu tố nguy cơ của nhóm đối tượng có
hành vi nguy cơ cao để đưa ra các biện pháp ưu tiên trong công tác can thiệp
dự phòng và phòng chống.
Trên cơ sở những kiến thức khoa học về HIV và bệnh lao mà các chiến
lược phòng, chống cũng như mô hình can thiệp được áp dụng, nhưng kết quả
cũng còn hạn chế do nhiều nguyên nhân như nguồn nhân lực, vật lực và sự
4
khó khăn trong tiếp cận, cũng như đặc thù riêng của địa phương với nhiều dân
tộc và trình độ kinh tế còn thấp. Hơn nữa, khu vực Tây Nguyên chưa có
nghiên cứu nào về HIV/lao trên nhóm NCMT, do vậy nghiên cứu “Thực trạng
nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở
nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk” được tiến hành với 3 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao AFB (+) trong nhóm nghiện
chích ma túy ở tỉnh Đắk Lắk năm 2011.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV và lao
trên nhóm nghiện chích ma túy.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng cộng đồng nhằm hạn chế tình
trạng nhiễm HIV và lao trên nhóm nghiện chích ma túy giai đoạn 2011-
2012
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1. Thực trạng HIV/AIDS và bệnh lao
1.1. Thực trạng HIV/AIDS
1.1.1. Khái niệm về HIV/AIDS
HIV là chữ viết tắt của tiếng Anh “Human Immunodeficiency Virus”
có nghĩa là (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người). HIV khi xâm nhập vào
cơ thể gọi là người nhiễm HIV, mã số phân loại quốc tế ICD-10 là B20B24
[3], [117], gây ra tình trạng ức chế miễn dịch thứ phát do mất các tế bào
lympho T CD4+ (hỗ trợ). Các tế bào T hỗ trợ này bình thường trợ giúp cho cả
đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào [117].
AIDS là chữ viết tắt bằng tiếng Anh “Acquired Inmunodeficiency
syndrome” có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do
nhiễm HIV. AIDS không phải là một bệnh mà là một hội chứng, AIDS là giai
đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Do hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ
thể không tự bảo vệ trước những nhiễm trùng cơ hội hoặc biến đổi tế bào mà
một người bình thường có thể chống đỡ được [117].
1.1.2. Tác nhân gây bệnh
Hai loại HIV đã được biết, đó là HIV-1 và HIV-2. Trên thế giới HIV-1
là loại chiếm ưu thế, HIV-2 gặp chủ yếu ở Tây Phi. HIV-1 có thời gian ủ bệnh
ngắn, nguy cơ lây truyền cao hơn và bệnh diễn biến nặng hơn. Ở Việt Nam,
đã được xác định là nhóm vi rút HIV-1, chưa có ghi nhận sự hiện diện nhóm
HIV-2 [86].
Cấu trúc của HIV có đường kính 1/10.000nm được chia thành hai lớp
chính: Lớp vỏ là màng lipid, trên đó có gai nhú glycoprotein (GP), đặc biệt là
GP120 và GP41 có tính kháng nguyên cao. Lớp lõi có chứa một số thành
phần chính như: Protein lõi, men phiên mã ngược và ARN là vật liệu di
truyền của HIV [81].
6
1.1.3. Sự lan truyền
HIV lây truyền qua ba con đường: Tình dục, đường máu và mẹ truyền
sang con lúc mang thai, khi sinh hoặc khi cho con bú [113].
1.1.3.1. Đường tình dục
Vi rút HIV có nhiều trong chất dịch sinh dục. Do vậy, vi rút có thể xâm
nhập vào máu qua cơ quan sinh dục. Việc sinh hoạt tình dục, dù có giao hợp
hay chỉ tiếp xúc với cơ quan sinh dục, đều dẫn đến nguy cơ lây nhiễm. Giao
hợp dương vật - hậu môn dễ làm lây HIV nhất, vì hậu môn và trực tràng
không có dịch trơn như âm đạo nên rất dễ xây xát, khiến HIV dễ dàng truyền
từ người này sang người khác [14].
1.1.3.2. Đường máu
Vi rút HIV có nhiều ở trong máu nên tiêm chích ma túy (TCMT) có
nguy cơ nhiễm HIV cao hơn người khác là do nhiều khi họ dùng chung bơm
kim (BKT) với nhóm bạn bè hoặc tại điểm bán thuốc nghiện. Những nghiên
cứu tại các quốc gia trên thế giới cho thấy nhóm đối tượng nghiện chích ma
túy (NCMT) luôn có tỷ lệ nhiễm HIV cao do những hành vi không an toàn
như sử dụng chung BKT, quan hệ tình dục (QHTD) bừa bãi. Một nghiên cứu
của Venkatesan Chakrapani ở Ấn Độ công bố vào năm 2011 trên nhóm đối
tượng NCMT cho kết quả có đến 38% nhiễm HIV, 33,3% sử dụng chung
BKT. Nghiên cứu cũng cho biết những yếu tố liên quan đến hành vi sử dụng
chung BKT như là ngại đến các nhà thuốc để mua BKT, tỷ lệ bao phủ của
chương trình cung cấp BKT sạch miễn phí còn thấp, không có sẵn BKT trong
nhà tù, trại cải tạo, sợ công an và các chương trình phòng, chống ma túy phát
hiện là người nghiện [14], [25], [52].
Truyền máu là tiếp nhận một lượng máu lớn vào cơ thể người nhận, do
đó nếu nhận máu của người nhiễm HIV, thì chắc chắn bị lây nhiễm. Nước ta
quy định bắt buộc xét nghiệm các đơn vị máu và loại bỏ máu có HIV .
1.1.3.3. Mẹ truyền sang con
Cứ một trăm phụ nữ nhiễm HIV sinh con, có khoảng 25-30 trẻ bị
nhiễm. HIV có thể lây sang bào thai qua nhau thai khi trẻ còn ở trong bụng
7
mẹ, qua máu và chất dịch của mẹ khi sinh, hoặc qua sữa mẹ khi mẹ cho con
bú. Trẻ sơ sinh nhiễm HIV thường không sống được quá ba năm [14].
Phụ nữ nhiễm HIV cũng có nhu cầu thiên chức làm mẹ, đó là chưa kể
mong muốn của người chồng và những người thân khác trong gia đình, hơn
nữa khả năng lây nhiễm không phải là 100%. Do đó, chính người phụ nữ cùng
chồng mình là những người quyết định có sinh con hay không [9], [14].
1.1.4. Diễn biến HIV/AIDS trên thế giới
Kể từ khi phát hiện HIV đầu tiên trên thế giới (1981), có thể chia đại
dịch HIV/AIDS thành 3 giai đoạn sau [27]:
1.1.4.1. Thời kỳ yên lặng
Năm 1981, lần đầu tiên một bệnh mới có tên là Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải, hay còn gọi là AIDS, đã được phát hiện trong số những
người đàn ông đồng tình luyến ái tại Mỹ. Vào năm 1983, tác nhân gây bệnh là
vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người nhiễm HIV đã được nhận dạng. Có
nhiều bằng chứng cho rằng thời gian ủ bệnh trung bình từ 8-10 năm, nên HIV
đã “yên lặng” trong khoảng thời gian ủ bệnh. Như vậy HIV đã xâm nhiễm con
người từ thập kỷ 70 về trước của thế kỷ XX và hoàn toàn nằm ngoài sự quan
tâm chú ý của y học [3], [27].
1.1.4.2. Thời kỳ phát hiện AIDS (1981 – 1985)
Những trường hợp AIDS đầu tiên vào năm 1981 được ghi nhận mở đầu
cho thời kỳ thứ hai của lịch sử AIDS. Trong thời kỳ này, phương thức lây
truyền bệnh đã được xác định, vi rút đã được phân lập, kỹ thuật xét nghiệm
phát hiện kháng thể HIV trong máu đã được phát triển.
1.1.4.3. Thời kỳ động viên toàn thế giới chống AIDS
Từ năm 1985 đến nay, xuất phát từ tình hình quốc tế không ổn định về
AIDS, vào đầu năm 1986 một đánh giá về tỷ lệ nhiễm HIV và số trường hợp
AIDS cho thấy ở các nước đang phát triển thiếu khả năng kỹ thuật để đánh giá
phạm vi lây nhiễm HIV/AIDS ... WHO thấy cần thiết phải hướng dẫn và phối
hợp các hoạt động y tế quốc tế trong phòng AIDS. Chương trình phòng chống
HIV/AIDS toàn cầu đã được thành lập ngày 1/2/1987 với 3 mục tiêu [111] là
8
(1) Phòng nhiễm HIV. (2) Giảm ảnh hưởng cá nhân và xã hội của nhiễm HIV
và (3) Hợp nhất các quốc gia và quốc tế chống AIDS.
1.1.5. Tình hình HIV/AIDS
Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của đại dịch HIV/AIDS, tháng
12/1994 Chương trình liên hiệp phòng, chống AIDS (UNAIDS) được thành
lập với sự tham gia của WHO, Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ
chức văn hóa khoa học – Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), Quỹ dân số
thế giới (UNPPA), Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) và
Ngân hàng thế giới (WB) [106], [111].
1.1.5.1. Tình hình HIV/AIDS trên thế giới
Mặc dù có những nỗ lực toàn cầu trong phòng chống HIV/AIDS, song
HIV/AIDS vẫn không ngừng tăng cả về mức độ lẫn quy mô lan rộng. Theo
thống kê của WHO ghi nhận trong năm 2011, số nhiễm mới HIV là 2,5 (2,2-
2,8) triệu người nâng tổng số người hiện nhiễm là 34 (31,4-35,9) triệu người.
Trong đó số nhiễm mới ở trẻ em < 15 tuổi là 330 ngàn (280-390 ngàn) người,
nâng số trẻ < 15 tuổi hiện nhiễm HIV lên 3,3 (3,1-3,8) triệu. Số tử vong liên
quan đến AIDS trong năm 2011 là 1,7 (1,5-1,9) triệu người, trong đó số tử
vong ở trẻ < 15 tuổi là 230.000 (200.000-270.000) [113]. Như vậy HIV/AIDS
vẫn là vấn đề YTCC nặng nề [106].
Bản đồ 1.1. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trên thế giới, 2011
9
1.1.5.2. Tình hình HIV/AIDS ở Việt Nam
Thời kỳ đầu tiên (1990 – 1993): Dịch HIV chỉ được phát hiện ở một số
tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung những tỉnh/thành phố lớn, dân cư đông, có
nhiều điểm du lịch và các dịch vụ giải trí, với số nhiễm HIV được phát hiện
dưới 1.500 trường hợp mỗi năm.
Thời kỳ từ 1994 – 1998: Đại dịch HIV lan ra toàn quốc với số nhiễm
HIV được phát hiện mỗi năm là khoảng 5.000 trường hợp và chủ yếu tập
trung ở các đối tượng có hành vi nguy cơ cao.
Thời kỳ từ năm 1999 đến nay: Xu hướng dịch HIV đã và đang lan ra
cộng đồng với số lượng nhiễm HIV được phát hiện mỗi năm từ 15.000 –
16.000 trường hợp.
Sự gia tăng nhanh chóng dịch HIV trong nhóm phụ nữ mại dâm
(PNMD) ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vào những năm 1997 (24%) và giảm
xuống 15% vào năm 2002, trong khi tỷ lệ nhiễm HIV ở PNMD toàn quốc tuy
vẫn ở mức 5%. Tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm phụ nữ mang thai trước sinh ở Việt
Nam đã tăng gấp 3 lần từ năm 1998 tới năm 2002 (từ 0,09% và 0,28%) [20],
[103]. Theo ước tính và dự báo về HIV/AIDS tại Việt Nam 2007 - 2012, tỷ lệ
hiện nhiễm HIV ở người trưởng thành độ tuổi 15 - 49 ở mức 0,4% trong năm
2010, ước tính có tới 254.000 người nhiễm HIVtrong năm 2010 và con số này
sẽ lên đến 280.000 vào năm 2012. Dịch HIV/AIDS chủ yếu ảnh hưởng đến
nhóm dân số trưởng thành, ở độ tuổi 20-30 chiếm hơn 80% các trường
hợp được báo cáo. Đây là những người đóng góp lớn vào sản xuất kinh
tế. Phần lớn người nhiễm HIV là nam giới, chiếm 73% các trường hợp được
báo cáo trong năm 2009.
Sự gia tăng tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở Việt Nam là do hành vi tiêm chích
và tình dục không an toàn. Dịch HIV ở Việt Nam tập trung trên các quần thể
nghiện chích ma túy (NCMT), phụ nữ mại dâm (PNMD) và QHTD đồng giới
nam (MSM) và có một phần nhỏ đã lan ra công đồng dân cư, trẻ sơ sinh. Gần
đây, dịch HIV đã có dấu hiệu ổn định, đã được phản ánh trong xu hướng giảm
và ổn định về tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong các quần thể NCMT và PNMD.
10
Tính đến 30/06/2012, số nhiễm HIV hiện còn sống ở Việt Nam là
204.019 trường hợp, số BN AIDS hiện còn sống là 58.569 và 61.856 trường
hợp tử vong do AIDS [8], [10]. Theo báo cáo tổng kết 6 tháng đầu 2012 của
Cục phòng chống HIV/AIDS, nhiễm HIV theo đường lây truyền cho thấy:
qua đường tình dục chiếm tỷ lệ cao nhất 45,6%, tiếp đến là nhiễm HIV lây
truyền qua đường máu chiếm 41,9%, nhiễm HIV lây truyền từ mẹ sang con
chiếm 2,4%. Hình thái dịch phân bố theo đường lây truyền có sự khác biệt
giữa các vùng miền. Tại khu vực Miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ và Tây Nguyên lây nhiễm HIV qua đường máu vẫn chiếm chủ yếu
(trên 40% trong số trường hợp nhiễm HIV được báo cáo) [19]. Trong khi đó,
khu vực Duyên hải Miền Trung, Miền Đông Nam Bộ và đặc biệt là Đồng
bằng Sông Cửu Long, phần lớn các trường hợp lây nhiễm HIV do qua đường
tình dục, tỷ lệ lây nhiễm HIV qua đường tình dục khu vực Đồng bằng Sông
Cửu Long năm 2011 là 77% [10], [15], [26].
Kết quả giám sát phát hiện nhiễm HIV chủ yếu là người NCMT chiếm
37,5% và chiếm gần 1/2 tổng số các trường hợp nhiễm HIV được báo cáo.
Trong 4 năm trở lại đây tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm tình dục khác giới tăng
nhanh từ 8% năm 2007 lên 24,2% ở năm 2011 [14], [26]. Ở một số địa
phương không thuộc những tỉnh giám sát trọng điểm HIV thì tình trạng nhiễm
HIV trong các tỉnh này ở mức cao hơn trung bình cả nước và cảnh báo nguy
cơ gia tăng tình trạng nhiễm HIV ở những tỉnh này. Tỷ lệ nhiễm HIV trong
nhóm NCMT là 19,1% ở Vĩnh Phúc; 16,1% ở Ninh Bình; 15% ở Hà Nam. Tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm PNMD là 10% ở Hà Nam; 4,5% ở Vĩnh Phúc. Điều
này có thể cảnh báo tình hình nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư và có nguy
cơ HIV hiện diện, tăng lên ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, những khu vực
khó tiếp cận dịch vụ y tế [8], [10], [28].
11
Biểu đồ 1.1. Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS và tử vong liên quan
đến HIV được báo cáo, 1993 – 2011
1.2. Thực trạng về bệnh lao
1.2.1. Một số khái niệm về bệnh lao
Bệnh lao phổi: Có các dấu hiệu như ho khạc kéo dài trên 2 tuần, sốt nhẹ
về chiều, ra mồ hôi “trộm”, gầy sút cân, ăn kém mệt mỏi, cũng có thể ho khạc
ra máu số lượng ít hoặc nhiều, đau ngực.
AFB (+): Có trực khuẩn kháng cồn, kháng toan trong đờm khi nhuộm
Zieht – Neelsen.
BK: Viết tắt của cụm từ Bacilie de Koch “Bệnh do trực khuẩn lao gây
nên, trực khuẩn lao do Robert Koch phát hiện (1882), còn được gọi là Bacilie
de Koch”.
Đồng nhiễm HIV/lao: Trên cùng một cá thể con người đều hiện diện vi
rút HIV và trực khuẩn lao.
1.2.2. Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh thuộc nhóm gây bệnh lao M. Tuberculosis thuộc chi
Mycobacterium, họ Mycobacteriaceae, bao gồm M. Tuberculosis, M. bovis,
12
M. microti, M. fricanum, M. canettii, và hai loài mới phát hiện gần đây là M.
pinnipedii và M. caprae. Tuy nhiên chỉ có M. Tuberculosis là tác nhân chủ
yếu gây bệnh ở người, M. fricanum, M. canettii cũng gây bệnh trên người
nhưng hiếm hơn, các loài còn lại thường gây bệnh trên động vật [43], [45],
[72].
1.2.3. Tình hình bệnh lao trên thế giới
Bệnh lao đang xuất hiện trở lại và cùng với đại dịch HIV/AIDS trở
thành một trong những căn nguyên gây mắc và tử vong chủ yếu, đặc biệt tại
các nước đang phát triển [66]. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 2,2 tỷ người
đã nhiễm lao (chiếm 1/3 dân số thế giới) 85% các trường hợp nhiễm mới này
xảy ra ở châu Phi. Trong đó, ước tính có khoảng một nửa triệu BN nhiễm
chủng lao kháng thuốc (MDR)-TB, tỷ lệ cao nhất ở khu vực Đông Âu [106].
Hiện nay, tỷ lệ điều trị thành công trên toàn cầu đạt 82%, nhưng tỷ lệ
phát hiện chỉ đạt 37% số BN ước tính. Như vậy, còn rất nhiều BN lao không
được chữa trị đang tiếp tục lây bệnh cho cộng đồng và theo ước tính của
WHO, mỗi năm có thêm 1% dân số thế giới bị mắc lao (65 triệu người). Hơn
33% số BN lao toàn cầu tại khu vực Đông-Nam Châu Á [89], [112], [114].
Bản đồ 1.2. Ước tính tỷ lệ mắc mới bệnh lao, 2011
Mức độ nặng nề của bệnh lao đã ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân và
chỉ số phát triển con người của các quốc gia. Các nghiên cứu về kinh tế y tế
13
cho thấy, mỗi bệnh nhân lao sẽ mất trung bình 3-4 tháng lao động, làm giảm
20-30% thu nhập bình quân của gia đình. Những gia đình có người chết sớm
vì bệnh lao có thể sẽ mất tới 15 năm thu nhập. Bệnh lao đã tác động mạnh tới
70% đối tượng lao động chính của xã hội, làm lực lượng sản xuất bị giảm sút,
năng suất lao động giảm và mùa màng, chợ búa sẽ không tham gia được. Diễn
đàn các đối tác chống lao Lần thứ nhất vào năm 2001 đã nhận định, bệnh lao
là nguyên nhân chủ yếu làm nghèo đói dai dẳng và là trở ngại đối với sự phát
triển kinh tế xã hội [89], [116].
Trong 22 nước có gánh nặng về bệnh lao thì phần lớn ở 8 nước của
châu Á là Ấn Độ, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Bangladesh, Pakistan,
Philippines, Việt Nam và Afghanistan. Ấn Độ là quốc gia gánh nặng bệnh lao
cao nhất thế giới và chiếm gần một phần năm (20%) của gánh nặng bệnh lao
trên toàn cầu. Tại Ấn Độ, lao ảnh hưởng nhất đến người lớn trong độ tuổi lao
động. Hơn 80% các trường hợp bệnh lao nằm ở độ tuổi này. Bệnh lao đã giết
chết gần 0,37 triệu người Ấn Độ hàng năm với tỷ lệ tử vong khoảng
28/100.000 dân. Trên toàn cầu, tỷ lệ phát hiện lao của chương trình DOTS
tăng liên tục gần như tuyến tính từ 11% năm 1995 đến 28% vào năm 2000, và
sau đó tăng lên 45% vào năm 2003. Tăng tốc nhiễm lao được ghi nhận trên
toàn cầu gần đây là chủ yếu do tỷ lệ mắc lao tăng nhanh chóng ở Ấn Độ, nơi
số mắc lao được phát hiện tăng từ 1,7% năm 1998 lên 47% vào năm 2003, và
ở Trung Quốc, nơi mà tỷ lệ mắc lao tăng từ 30% năm 2002 lên 43% vào năm
2003. Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 63% của sự gia tăng trong thông báo của
chương trình DOTS [66], [ 89], [119]. Đặc biệt quan tâm trong khu vực châu
Á là sự xuất hiện của tình trạng bệnh lao kháng thuốc, thậm chí còn khó khăn
hơn trong điều trị. Bệnh lao kháng đa kháng thuốc (MDR) cũng là một vấn đề
nghiêm trọng ở Trung Quốc và các nước Liên Xô cũ