Luận án Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết tự lực văn đoàn

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tựlực văn đoàn xuất hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong việc đánh giá sự đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nóiriêng và trào lưu văn học lãng mạn nóichung trong tiến trình của văn học dân tộc. Trên tinh thần đổi mới, việc thẩm định lại giá trịcủa văn học quá khứvới một tưduy khoa học, một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ bình tâmtĩnh trí, một tình cảm trân trọng di sản văn học của tiền nhân, thiết nghĩ, đó là một việc làm hết sức khó khăn nhưng đầy sức hấp dẫn và rất cần thiết. “Thời gian gần đây, lý luận vàphê bình văn chương của ta thường nhắc đến hai chữnhân văn - tính chất nhân văn, giá trịnhân văn, chủnghĩa nhân văn - xem đó là hằng tính của văn chương nghệthuật, là tiêu chí cho sự đổi mới trong lĩnh vực này. Đó là điều xác đáng” (Trần Thanh Đạm) (51.21). Thật vậy, xét đến cùng, qua sựgạn lọc khắc nghiệt của thời gian, các giá trịbền vững nhất của văn học bao giờcũng được xemxéttrong mối quan hệvới con người. “Văn học là một phương tiện quan trọng giúp con người trởthành con người vì nó mởra những bí mật của con người, giúp con người hiểu thêmvềchính mình, trởnên phong phú hơn và một phần từchỗhiểu mình, từsựphong phú của chính mình, con người hiểu thêm vềthếgiới, sựphong phú của thếgiới” (Lê Ngọc Trà) (28.57–58).Giáo sưNguyễn Đăng Mạnh đã có nói thêm: “Văn học tiến bộhay không, lành mạnh hay không, tuỳthuộc ở giá trịnhân bảncủa nó chứkhông tùy thuộc ởchỗnó là lãng mạn hay hiện thực. Vảlại không có ranh giới dứt khoát giữachủnghĩa hiện thựcvà chủnghĩa lãng mạn” (76b.31).

pdf121 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3432 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết tự lực văn đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÏM THANH HUØNG TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN LUAÄN AÙN THAÏC SÓ KHOA HOÏC NGÖÕ VAÊN LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: HOÀNG NHƯ MAI Giáo sư khoa học Ngữ Văn Người nhận xét 1: Người nhận xét 2: LUẬN ÁN ĐƯỢC BẢO VỆ TẠI HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Vào hồi ………………………giờ, ngày ………… tháng ………… năm 1999 Có thể tìm hiểu luận án tại: THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ . THƯ VIỆN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM AN GIANG. Đa tạ quý Thầy, Cô : GS. HOÀNG NHƯ MAI PGS. PTS TRẦN HỮU TÁ PGS. PTS PHÙNG QUÝ NHÂM PTS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN PTS. LÊ TIẾN DŨNG MỤC LỤC Trang PHẦN DẪN LUẬN ................................................................................. 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : ................................... 1 II. PHẠM VỊ ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU : ......................................... 3 III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ : ................................................................ 4 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : ................................................................... 11 V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN : ................................................ 12 VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN : ......................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG.............................................................................. 14 CHƯƠNG MỘT : TÍNH NHÂN VĂN - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC ..................................... 14 I. KHÁI NIỆM “TÍNH NHÂN VĂN” HAY MỘT KHUYNH HƯỚNG NHÌN NHẬN TỔNG HỢP MỌI GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC : ......................... 14 II. VÀI NÉT VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY : ..... 16 III. SƠ LƯỢC VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC 1932 - ĐIỂM QUA MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TIÊU BIỂU : ........................................................................ 18 CHƯƠNG HAI :TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN .............................................. 32 I. SỰ RA ĐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : ........................... 32 II. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : .................................................................................... 34 III. TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - MỘT ĐÓNG GÓP MỚI CHO NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM MANG TÍNH NHÂN VĂN : ............................ 53 IV. CÁC NGUỒN ẢNH HƯỞNG : ........................................................................ 113 V. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ : ............................................................ 118 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................ 124 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … PHẦN DẪN LUẬN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 1. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xuất hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong việc đánh giá sự đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn nói chung trong tiến trình của văn học dân tộc. Trên tinh thần đổi mới, việc thẩm định lại giá trị của văn học quá khứ với một tư duy khoa học, một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ bình tâm tĩnh trí, một tình cảm trân trọng di sản văn học của tiền nhân, thiết nghĩ, đó là một việc làm hết sức khó khăn nhưng đầy sức hấp dẫn và rất cần thiết. “Thời gian gần đây, lý luận và phê bình văn chương của ta thường nhắc đến hai chữ nhân văn - tính chất nhân văn, giá trị nhân văn, chủ nghĩa nhân văn - xem đó là hằng tính của văn chương nghệ thuật, là tiêu chí cho sự đổi mới trong lĩnh vực này. Đó là điều xác đáng” (Trần Thanh Đạm) (51.21). Thật vậy, xét đến cùng, qua sự gạn lọc khắc nghiệt của thời gian, các giá trị bền vững nhất của văn học bao giờ cũng được xem xét trong mối quan hệ với con người. “Văn học là một phương tiện quan trọng giúp con người trở thành con người vì nó mở ra những bí mật của con người, giúp con người hiểu thêm về chính mình, trở nên phong phú hơn và một phần từ chỗ hiểu mình, từ sự phong phú của chính mình, con người hiểu thêm về thế giới, sự phong phú của thế giới” (Lê Ngọc Trà) (28.57–58). Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có nói thêm: “Văn học tiến bộ hay không, lành mạnh hay không, tuỳ thuộc ở giá trị nhân bản của nó chứ không tùy thuộc ở chỗ nó là lãng mạn hay hiện thực. Vả lại không có ranh giới dứt khoát giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn” (76b.31). Theo dõi quá trình hình thành và phát triển của Tự lực văn đoàn (1932 - 1945), người ta không thể không thấy vấn đề mà các nhà văn ) 1 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … lãng mạn đặc biệt quan tâm trong các tác phẩm tiểu thuyết của mình là vấn đề giải phóng phụ nữ. Chính từ vấn đề cốt lõi này, việc chọn tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đi sâu vào nghiên cứu hình tượng người phụ nữ để thấy được sự đóng góp của các nhà văn lãng mạn cho trào lưu nhân văn chủ nghĩa của văn học dân tộc là một việc làm rất có ý nghĩa mà đến nay, vì nhiều lý do, vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức. 2. Nghiên cứu “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”, luận án này nhằm hướng đến các mục đích sau: - Góp phần khẳng định giá trị của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong việc kế thừa và phát huy truyền thống nhân văn của văn học quá khứ, một vấn đề mà trước đây còn bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức, đưa văn xuôi Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại. - Cố gắng đưa ra những nhận xét, đánh giá tương đối thỏa đáng, công bằng, khách quan, khoa học về trào lưu văn học lãng mạn nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng. - Trong xu thế của sự tác động mạnh mẽ vào những giá trị đạo đức truyền thống đang diễn ra ở bối cảnh xã hội mở cửa hiện nay, vấn đề hôn nhân, tình yêu là một trong những vấn đề thời sự được nhiều người quan tâm, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Qua việc nghiên cứu, luận án cũng muốn góp một tiếng nói định hướng cho những vấn đề trên. II. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU: 1. Không nói đến chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo hay tư tưởng nhân văn, tư tưởng nhân đạo mà chỉ đề cập đến “tính nhân văn” là có lý do: - Đây là một vấn đề lý thú cần tiếp tục nghiên cứu, bởi so với phương Tây, cùng với “sự ra đời của ý thức hệ tư sản trong giai đoạn đấu tranh chống phong kiến đã kéo theo nó một trào lưu có tính chất nhân đạo chủ nghĩa (hay nhân văn chủ nghĩa) không những trong văn học, nghệ thuật, mà trong nhiều ngành văn hóa, khoa học khác” ) 2 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … (Nguyễn Lộc) (40a.72), thì ở Việt Nam ta “do chính sách độc quyền kinh tế của đế quốc, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam phát triển khó khăn, yếu đuối. Giai cấp này một mặt mâu thuẫn với đế quốc, phong kiến, mặt khác lại phụ thuộc vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu, mỏng manh ……” (22.12). Chính vì thế, về mặt văn học, Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn chủ yếu chỉ là “lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời; trọng tự do cá nhân; làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa; đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương An nam”. Tất nhiên, không thể lấy “thước đo” của văn học phương Tây để áp dụng vào văn học Việt Nam, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng việc “không phải chỉ đòi giải phóng cá nhân khỏi sự ngu dốt, đòi hỏi trì trệ của mọi người được phát triển, mà còn trực tiếp đòi hỏi giải phóng cá nhân khỏi sự gò ép về phương diện chính trị và kinh tế” (66.214) thì ở trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng còn có giới hạn. Đừng quên rằng văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán là hai trào lưu văn học công khai, hợp pháp trong xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn 1930 – 1945. Hơn nữa, việc khẳng định trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 như là một sự kế thừa và phát triển truyền thống nhân văn của văn học dân tộc phải được xem xét một cách toàn diện, không chỉ xuất phát từ cơ sở ý thức hệ, từ thực tiễn văn học mà nhiều khi cần phải nghiên cứu cả “cuộc đấu tranh của quần chúng bị áp bức trong điều kiện giai tầng thứ ba của nó là tầng lớp tư sản đã vươn lên thành một giai cấp đối địch với xã hội phong kiến” (40a.73). - Ở đây, trong phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ đề cập đến những biểu hiện của trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 qua hình tượng người phụ nữ ở tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Người viết cũng không có tham vọng đề cập hết những tác phẩm tiểu thuyết lãng mạn của văn đoàn mà chỉ đi vào nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu nhất của những cây bút trụ cột nhất (Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam) và xem đó là sự thể hiện tập trung, sinh động của vấn đề được nêu ra. ) 3 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … 2. Tư liệu chính để nghiên cứu bao gồm phần lớn tác phẩm, sách in và những bài báo viết về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chủ yếu được xuất bản từ thập niên 40 đến nay, nhất là từ 1986 trở lại đây, khi có sự đổi mới về tư duy, về nhận thức, quan điểm trong việc đánh giá, tiếp nhận di sản văn học của tiền nhân sao cho công bằng, khoa học hơn. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện trên cơ sở đối chiếu, so sánh, luận án còn khảo sát các tài liệu nghiên cứu, phê bình văn học trước 1975 ở miền Nam và một số ít tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài. III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ: - Trước 1945, hầu như chưa có những chuyên luận, những công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Thảng hoặc có đề cập đến trong những công trình nghiên cứu dài hơi viết về văn học sử, về lý luận hay phê bình văn học (Dưới mắt tôi (1939) - Trương Chính; Việt Nam văn học sử yếu (1942) – Dương Quảng Hàm; Nhà văn hiện đại (1941 – 1942) – Vũ Ngọc Phan; Văn học khái luận (1942) – Đặng Thai Mai; Ba mươi năm văn học (1942) – Kiều Thanh Quế; Cuốn sổ văn học (1944)–Lê Thanh …) thì do giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu, do hạn chế bởi phương pháp, quan điểm tiếp cận … người viết cũng không thể khảo sát, phân tích, lý giải hết sự phong phú, sinh động, phức tạp của những hiện tượng văn học (tác giả, tác phẩm) thuộc văn đoàn. Dưới mắt tôi (Trương Chính) là một quyển phê bình văn học được nhiều người biết đến. Dù có phần hoàn hảo hơn những người đi trước (như Thiếu Sơn với Phê bình và cảo luận - 1933, Phan Khôi với Chương Dân Thi Thoại - 1936 …) trong phương pháp phê bình khi “sự khen chê của ông đã có căn cứ, không đến nỗi vu vơ … nghĩa là những chỗ hay và chỗ dở ông đã chỉ ra rõ ràng, đã nói tại sao hay và tại sao dở … Nhưng Trương Chính có cái tật hay phân tích tính cách các nhân vật nhiều quá luôn luôn ông bẻ các nhà tiểu thuyết sao lại như thế này và không như thế khác …" (77(2).20). Có thể thấy lời phê bình trên đây của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nêu rõ lập trường của Trương Chính trong phê bình văn học, lập trường của một ngòi bút theo trường phái phê bình chủ quan, cổ điển. Ở quyển sách này, ông đã chọn phê bình tất cả 28 tác phẩm của 12 nhà văn, hầu hết là những cây bút ) 4 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … tiểu thuyết. Về Tự lực văn đoàn, những tác giả được đề cập đến là Nhất Linh với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm; Khái Hưng với Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân,Trống mái, Gia đình; đồng tác giả Nhất Linh và Khái Hưng với Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Riêng Thạch Lam với tập truyện ngắn Gió đầu mùa. Ngoài ra, còn có những tác giả khác như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Trương Tửu, Lan Khai, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyên Hồng, Từ Ngọc. Mỗi nhà văn ông đi vào phê bình từ một đến nhiều nhất là năm tác phẩm. Mặc dù Trương Chính đã sử dụng phương pháp “nghị luận theo sở thích của mình” (77(2).21) đối với những tác phẩm được đề cập đến, nhưng “khó mà biết được ý kiến rõ rệt của ông về một nhà văn sau khi đọc những bài phê bình của ông về nhà văn ấy” (77(2).25) . Tuy vậy, “Trương Chính cũng là người mở đầu trong phong trào phê bình của những năm 1941 - 1942 - 1943. “Dưới mắt tôi”, Trương Chính đã gây được ở độc giả một lòng ham muốn đọc văn phê bình” (34.183). Xưa nay, khi đề cập đến công việc biên soạn sách giáo khoa dùng trong khoa giảng quốc văn không ai không biết đến quyển Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Trong phần “Biên tập đại ý”, chính tác giả đã “mong rằng quyển sách này sẽ làm một bức bản đồ giản ước theo đó các bạn thanh niên biết được phương hướng và đường lối chính để đi vào khu vườn văn học của nước ta, ngõ hầu một ngày kia tìm thấy những hoa lạ, quả quý hiện nay còn ẩn khuất trong đám cành lá rậm rạp” (11.VI). Vì là sách giản ước dùng làm công cụ học tập, phải đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau có liên quan đến việc tìm hiểu toàn bộ nền văn học nước nhà, nên ở chương thứ bảy: “Các văn gia hiện đại. Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng phái Tự lực văn đoàn”, dành cho năm thứ ba ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm chỉ nói đến Tự lực văn đoàn một cách khái quát trong chưa đầy bốn trang trên tổng số 500 trang của cả quyển. Tác giả dường như chưa thể đưa ra những lời nhận xét, đánh giá cụ thể ngoài việc lượt kể hết sức vắn tắt nội dung những tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên. Một vài ý kiến có tính chất khái quát khi đề cập đến “Công việc của Tự lực văn đoàn” chưa thể đáp ứng được ý muốn tìm hiểu của độc giả về Tự lực văn đoàn. ) 5 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … Vũ Ngọc Phan nổi tiếng với bộ sách nghiên cứu, phê bình văn học đồ sộ Nhà văn hiện đại (1941 - 1942) đã khẳng định “một chỗ đứng riêng, và có sự đóng góp không thể thay thế” (77(2).557) . Dù đã trải qua hơn nửa thế kỷ, bộ sách “vẫn có ích cho bất cứ ai muốn tìm hiểu nền văn học chữ quốc ngữ những năm trước Cách mạng tháng Tám” (77(2).557). Bằng một tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, bền bỉ, một tác phong nghiên cứu khoa học nghiêm cẩn, vô tư, Vũ Ngọc Phan phải tốn rất nhiều công sức mới có thể chiếm lĩnh hơn 60 năm văn học và đã giới thiệu được 79 nhà văn tham gia sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, đến những cây bút trẻ nổi tiếng của những năm 40 thế kỷ XX. Viết về Tự lực văn đoàn, căn cứ vào sự sắp xếp theo loại văn đối với các nhà văn lớp sau, ông đã xếp Khái Hưng vào thiên các tiểu thuyết gia phong tục, Nhất Linh và Hoàng Đạo là những tiểu thuyết gia luận đề, Thạch Lam thuộc về các tiểu thuyết gia xã hội. Đi vào lĩnh vực phê bình tiểu thuyết, ở mỗi tác giả, Vũ Ngọc Phan đề cập đến những tác phẩm tiêu biểu mà người đọc đương thời biết đến. Chẳng hạn, viết về Khái Hưng, ông nói đến Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Thừa tự, Hạnh. Với Nhất Linh, ông viết về Nho phong, Gánh hàng hoa. Hoàng Đạo với Con đường sáng và Thạch Lam với Ngày mới. Nhìn chung, khi đi sâu vào phân tích những tác phẩm cụ thể “ông tỏ ra tinh tế, sắc sảo, khen chê có căn cứ, có lý có tình. Tính chính xác của tư liệu được đảm bảo ở mức độ cao” (77(2).558). Mặc dù, do nhiều lý do cả khách quan và chủ quan, người đọc vẫn thấy được phê bình của ông “còn thiên về cảm thụ nghệ thuật, thiếu sự thuyết phục của một tư duy logic sâu sắc” (77(2).558). Với Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, “lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, những vấn đề cơ bản của lý luận văn học đã được trình bày một cách hệ thống” (74.171), mặc dù tác giả không chỉ có ý định giới thiệu với người đọc những khái niệm lý luận kinh viện. Tiếp thụ và vận dụng quan điểm marxisme vào văn học, Đặng Thai Mai đã tiếp cận được nhiều vấn đề của lý luận văn học và trình bày nó trong sự kết hợp hòa quyện giữa tinh thần lý luận với bút pháp phê bình, giữa nguồn tri thức của phương Đông cổ truyền với tri thức của phương Tây ) 6 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … hiện đại. Người đọc có thể dễ dàng có được những khoái cảm thẩm mỹ khi đọc đến những đoạn văn mà ngòi bút của tác giả tỏ rõ cảm hứng phê bình. Chẳng hạn, khi tác giả thừa nhận tình yêu là một trong những chủ đề vĩnh cửu của văn học, nhưng mỗi thời đại lại đem đến cho chúng một sắc thái mới, và nhà văn đã đi vào so sánh tình yêu trong các tác phẩm từ Truyện Kiều, Tố Tâm đến Đoạn tuyệt. Vì là một công trình lý luận văn học hơn là một thành tựu về phê bình văn học nên người đọc chỉ có thể tìm thấy rải rác đây đó những nhận định thú vị và bổ ích cho việc tìm hiểu lịch sử văn học nước nhà. Việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm với tư cách là một hiện tượng văn học sẽ không được thỏa mãn. Ba mươi năm văn học của Kiều Thanh Quế và Cuốn sổ văn học của Lê Thanh ra đời xuýt xoát nhau hai năm đều nhắm tới một công việc là phác họa ra một bảng lược đồ văn học. Ở quyển sách ra đời trước của mình, Kiều Thanh Quế đã đem đến cho người đọc sự tóm tắt mọi diễn biến về lịch sử văn học trong suốt giai đoạn ba mươi năm của tiền bán thế kỷ hai mươi. Trong khi đó, trọng tâm của Cuốn sổ văn học là công việc trước mắt hạn chế trong thời gian năm 1943, dù tác giả đã có mở rộng về phía trước, có khi khảo sát cả đến năm 1939 và hơn nữa. Nhìn chung, cả hai quyển sách trên đều là những công trình văn học sử. Việc tìm hiểu về Tự lực văn đoàn nói riêng, hay những hiện tượng văn học khác nói chung, khó có thể tìm thấy được những lý giải, những nhận xét, phê bình tương đối đầy đủ và có hệ thống. Sự khát khao của độc giả vẫn còn đó. - Sau 1945, trong suốt một thời gian dài kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, do hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, do bản thân dòng văn học lãng mạn nói chung và những sáng tác của những cây bút trong Tự lực văn đoàn nói riêng có những yếu tố tiêu cực, và cũng do nhận thức còn phiến diện cho sáng tác của văn học lãng mạn là vô bổ, độc hại, nên tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã bị cấm, không được phổ biến. Các bộ lịch sử văn học (như Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 do Viện Văn học chủ trì biên ) 7 Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … soạn, Lịch sử văn học Việt Nam 1930–1945, Văn học Việt Nam 1930– 1945 của nhiều tác giả …) dù có dành hẳn một chương để viết về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, nhưng tất cả đều với một cách nhìn nhận gần như giống nhau “đề cao chắc chắn là không đúng. Nhưng phủ định sạch trơn hẳn cũng khó được đồng tình” (22.88), “… sự đóng góp của Tự lực văn đoàn đã không tránh khỏi bấp bênh, có phần sa vào hình thức chủ nghĩa, cái sai nhiều hơn cái đúng, nhất là càng về sau, cái sai lấn át cái đúng”(22.89). Đó là chưa kể đến cách nhận xét, đánh giá cứng rắn hơn trong các sách giáo khoa viết cho học sinh lớp 12/PTTH kể từ 1987 trở về trước: “Văn học lãng mạn Việt Nam căn bản là bạc nhược, suy đồi” hay “Nội dung bạc nhược, suy đồi và có tính chất phản động” ,“học sinh thanh niên ta cũng cần phải có ý thức cảnh giác với loại sách có nhiều nọc độc đó”. Chính vì lẽ đó, trong suốt một thời gian dài từ trước 1975, ở miền Bắc, văn chương lãng mạn nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng đã bị loại ra khỏi đời sống văn học. Ở miền Nam trong vùng địch tạm chiếm lúc bấy giờ, tình hình nghiên cứu vẫn tiếp tục với các công trình của Thanh Lãng, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Doãn Quốc Sỹ, Thế Phong, Nguyễn Văn Trung, Tràng Thiên, Phạm Việt Tuyền,