Phương án 1: Chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương là chính quyền đầy đủ với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Dưới cấp chính quyền này là chính quyền quận, huyện đầy đủ có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; dưới quận chỉ có các cơ quan hành chính.Theo đó, tổ chức chính quyền trong nội thành chỉ có một cấp đầy đủ với HĐND và UBND là cấp chính quyền ở thành phố. Các đơn vị hành chính quận, phường chỉ có các đại diện hay văn phòng đại diện của chính quyền thành phố. Gần đây, Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng nghiêng về phương án này khi trình Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đề xuất, tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương có cấp chính quyền thành phố, cấp chính quyền , quận (hay thành phố thuộc thành phố) và 01 cấp hành chính phường.Trong tổng thể, ở đơn vị hành chính thành phố trực thuộc Trung ương, chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, xã là các cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh, có cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ở các phường thuộc quận chỉ có UBND phường.Ngoài điều kể trên, tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương theo đề xuất này có những điểm đáng chú ý liên quan đến khu vực nội thành: Một là, do không tổ chức HĐND ở các phường thuộc quận, nên nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND quận cũng cần được tính toán nhằm khắc phục những khoảng trống do khuyết thiếu cơ quan dân cử ở phường. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND, Chủ tịch UBND quận (ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, các văn bản pháp luật khác liên quan), cần xem xét bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn cần thiết. Về vấn đề này chúng ta đã có những kinh nghiệm nhất định khi thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại kỳ họp thư tư của Quốc hội khoá XII và một số văn bản liên quan khác.
183 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 27/03/2025 | Lượt xem: 63 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tổ chức chính quyền Thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH NGUYÊN MẠNH
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2024
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH NGUYÊN MẠNH
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG Ở VIỆT NAM
Ngành : Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số : 9380102
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Vũ Thư
2. TS. Nguyễn Tuấn Khanh
HÀ NỘI - 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Tất cả các số liệu được đưa ra, các ví dụ và trích dẫn trong luận án đều đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học mà luận án đưa ra chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Đinh Nguyên Mạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐẶT RA CHO ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................. 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 8
1.2. Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu ............................................. 36
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu .................................................................. 43
Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 45
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ....................................... 47
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chính quyền thành phố trực thuộc
trung ương ................................................................................................... 47
2.2. Nguyên tắc, cấu thành tổ chức và các mối quan hệ cơ bản của chính
quyền thành phố trực thuộc trung ương ...................................................... 60
2.3. Các yếu tố tác động đến việc tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
trung ương ................................................................................................... 69
2.4. Tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc trung ương tại một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm đối với việt nam 75
Kết luận chương 2 ..81
Chương 3. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................. 83
3.1. Tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc trung ương ở việt nam theo
các bản hiến pháp ........................................................................................ 83
3.2. Tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc trung ương hiện nay ........ 95
3.3. Đánh giá thực trạng mô hình tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
trung ương ở việt nam hiện nay ................................................................ 109
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................ 126
Chương 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC CHÍNH
QUYỀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ...................... 129
4.1. Quan điểm đổi mới tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc trung ương
................................................................................................................... 129
4.2. Giải pháp đổi mới mô hình tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
trung ương ................................................................................................. 135
Kết luận Chương 4 ...................................................................................... 170
KẾT LUẬN .................................................................................................. 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..175
MỞ ĐẦU
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cùng với
việc xác định các đơn vị hành chính nước ta gồm ba cấp: Tỉnh, Huyện, Xã và đơn vị hành
chính đặc biệt đã quy định về tổ chức chính quyền trên các đơn vị hành chính đó. Chính
quyền thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập trên đơn vị hành chính thành phố
trực thuộc Trung ương. Đây là đơn vị hành chính tương đương đơn vị hành chính tỉnh,
nhưng là đơn vị hành chính đặc biệt hoặc là loại I (trong ba loại đơn vị hành chính cấp Tỉnh
còn lại I, II, III).
Chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương như tên gọi của nó là cấp chính quyền
được chính quyền Trung ương hết sức coi trọng bởi tầm quan trọng của nó không chỉ ở tầm địa
phương, lan toả, ảnh hưởng khu vực xung quanh mà còn đối với sự phát triển chung của quốc
gia. Bởi vậy, hàm ý chính quyền Thành phố trực thuộc Trung ương nói về sự kiểm soát, chế
độ, chính sách đặc thù đối với nó. Xét về thực chất, chính quyền Thành phố trực thuộc Trung
ương là cấp chính quyền đã được thành lập ở nước ta từ Sắc lệnh số 77- SL ngày 21/12/1945,
nhưng chỉ chính thức được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Quốc
hội thông qua ngày 29/4/1958. Từ đó, trong các bản hiến pháp của Nhà nước ta ở các mức độ
khác nhau đều ghi nhận cấp chính quyền Thành phố trực thuộc Trung ương.
Cho đến nay, mặc dù Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ bản của chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ cũng đã có các văn bản quy định
chi tiết về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Thành phố trực
thuộc Trung ương, nhưng vấn đề đổi mới tổ chức chính quyền Thành phố trực thuộc Trung
ương vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra. Tại một số thành phố trực thuộc Trung ương như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng mặc dù đã được Quốc hội xác định một số cơ chế
đặc thù, nhưng vẫn đang trong quá trình tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, hay thí điểm. Trong
thực tế, như đã biết, có một số tỉnh Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa sắp tới sẽ trở
thành thành phố trực thuộc Trung ương cũng cần được xác định về cơ bản mô hình tổ chức
chính quyền. Điều đó liên quan đến các mối quan hệ bên trong của các cấp chính quyền,
với hệ thống chính trị nói chung, đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp
trong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công ở địa phương và trên hết là các kết quả
thực tế về phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương.
1
Những điều kể trên dẫn đến chỗ làm cho vấn đề tổ chức chính quyền Thành phố
trực thuộc Trung ương hiện nay, xét cả ở góc độ nghiên cứu, từ quy định của pháp luật
và trong thực tiễn thực hiện vẫn đang là chủ đề được các nhà quản lý, nhà khoa học và
các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm. Thực tế trên đây cho thấy việc nghiên cứu tổ chức
chính quyền Thành phố trực thuộc Trung ương là cần thiết, góp phần giải mã một vấn
đề phức tạp phục vụ cho sự phát triển ở cấp độ địa phương và cả nước. Đã có không ít
công trình nghiên cứu chung về chính quyền địa phương, về chính quyền đô thị nói
chung, nhưng nghiên cứu về chính quyền Thành phố trực thuộc Trung ương cũng mới
được chú ý trong những năm gần đây. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu cấp
chính quyền đặc biệt quan trọng này là rất cần thiết và hợp lý. Điều đó cũng phù hợp
với tinh thần của Nghị quyết số 18 - NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII) ngày 25/10/2017 về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Theo
Nghị quyết, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức
chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa
các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ;
còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ, cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu
quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế. Cải cách
hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính chuyển biến chậm, không đồng bộ, chưa
đáp ứng yêu cầu Đáng lưu ý là về mặt nhiệm vụ, giải pháp, Nghị quyết số 27-NQ/TW
ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân,
chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả với các nội dung trọng tâm như:
tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giảm hợp lý số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu
lực, hiệu quả, tập trung quản lý phát triển; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật,
nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân; xây dựng
2
nền hành chính phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, khoa
học, trong sạch, công khai, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: Tổ chức bộ máy; công vụ, công
chức; hành chính điện tử và chuyển đổi số; Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương
phù hợp với các địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế
đặc biệt; giảm cấp chính quyền phù hợp ở một số địa phương; xây dựng mô hình quản
trị chính quyền địa phương phù hợp với từng địa bàn, gắn với yêu cầu phát triển các
vùng, khu kinh tế; tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; nghiên cứu
thí điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị
hành chính của quốc gia và từng địa phương; xây dựng cơ chế, thể chế, chính sách đặc
thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
khoa học, hợp lý, đi đôi với nâng cao trách nhiệm, gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực
thực hiện pháp luật cho các địa phương và các bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo
đảm quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm của từng địa phương và các bộ2 Các nội dung này là những định hướng quan
trọng trong nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về tổ chức chính quyền thành phố trực
thuộc Trung ương hiện nay.
Từ những trình bày trên đây, Nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tổ chức chính quyền
thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học nhằm
góp phần vào việc hoàn thiện, đổi mới tổ chức của chính quyền thành phố trực thuộc Trung
ương hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của việc thực hiện đề tài là: trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý
luận về tổ chức chính quyền và qua đánh giá thực trạng tổ chức chính quyền thành phố trực
thuộc Trung ương hiện nay ở nước ta, luận án đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức chính
quyền thành phố trực thuộc Trung ương đáp ứng các yêu cầu hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2022): Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới.
3
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương về vị trí, vai trò; chức năng nhiệm vụ; mô hình tổ chức, các mối quan hệ; tiêu
chí hoàn thiện tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương; kinh nghiệm lập pháp
về tổ chức chính quyền thành phố ở một số nước liên quan;
- Đánh giá thực trạng tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay
về các mặt vai trò, xác định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy chính quyền, các mối
quan hệ, hiệu quả hoạt động của chính quyền...
- Từ nhận thức lý luận và thực trạng tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung
ương Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức chính quyền thành phố trực
thuộc Trung ương hiện nay theo yêu cầu thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tổ chức chính quyền
thành phố trực thuộc Trung ương.
Không gian nghiên cứu: Tổ chức chính quyền của các thành phố trực thuộc Trung
ương ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát: từ khi Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân được ban hành (năm 2003) cho đến hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận thực hiện đề tài là các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề nhà nước và pháp luật
nói chung, Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng, về tổ chức chính quyền xã hội chủ
nghĩa, chính quyền địa phương và chính quyền đô thị; đồng thời các quan niệm hiện đại,
tiến bộ về tổ chức bộ máy chính quyền đương đại.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài là: phân tích,
tổng hợp, hệ thống, lịch sử, hệ thống, lịch sử, so sánh...Cụ thể như sau:
Chương 1: về tổng quan tình hình nghiên cứu, luận án sử dụng chủ yếu phương pháp
thống kê để tập hợp các công trình trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án.
Trong phần đánh giá, bình luận, nhận xét về tình hình nghiên cứu, luận án sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử.. để làm rõ kết quả nghiên cứu cũng như các vấn
đề còn khiếm khuyết, chưa thấu đáo, chưa thống nhất. Từ đó, luận án xác định hướng, các
vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án.
4
Chương 2: để giải quyết các vấn đề lý luận, luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp
như tiếp cận đa ngành, liên ngành, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, lịch
sử để làm rõ các vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, vai trò, chức năng của chính quyền
thành phố trực thuộc Trung ương; tổ chức và hoạt động của chính quyền thành phố trong mối
quan hệ với các yếu tố quyết định hoặc tác động đến chính quyền: đặc điểm của đối tượng quản
lý, kinh tế thị trường, nhà nước kiến tạo phát triển, quản trị nhà nước tốt; tiêu chí hoàn thiện tổ
chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương; mô hình và tổ chức chính quyền cấp thành
phố trực thuộc Trung ương một số nước trên thế giới.
Chương 3: về đánh giá thực trạng của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương,
luận án sử dụng phương pháp lịch sử để xem xét quá trình hình thành và phát triển của
chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương ở nước ta từ năm 1945 đến nay; các phương
pháp phân tích, thống kê, tổng hợp để đánh giá thực trạng quy định pháp luật tổ chức
chính quyền cấp thành phố trực thuộc Trung ương, thực tiễn tổ chức và hoạt động của chính
quyền thành phố trực thuộc Trung ương.
Từ cách tiếp cận về quản trị nhà nước trong điều kiện mới và các xu hướng mới trong
quản lý, quản trị nhà nước, luận án sử dụng phương pháp phân tích và so sánh giữa nhận
thức mới và các mô hình tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương các nước
để làm sáng tỏ các thành tựu cũng như các hạn chế, tồn tại trong thực tế tổ chức và hoạt
động của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay ở nước ta.
Chương 4: trong mục đích đề xuất các giải pháp đổi mới chính quyền thành phố trực
thuộc Trung ương ở nước ta hiện nay, luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích
tổng hợp, so sánh, lịch sử cụ thể để xác định các quan điểm và đề xuất giải pháp đổi mới
chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay ở nước ta. Trong đó, chính quyền
vừa có tính phổ quát, vừa có tính đặc thù, tương thích với các điều kiện ở nước ta nhằm
quản lý và bảo đảm cung ứng các dịch vụ công một cách hiệu lực, hiệu quả.
5. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp mới của luận án thể hiện ở những điểm sau:
Một là, luận án tập hợp, thống kê và phân tích các nghiên cứu chủ yếu hiện nay về tổ
chức và hoạt động của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương. Qua đó, nhận diện
những thành tựu, cũng như những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa nghiên cứu hoặc chưa có sự
thống nhất ý kiến, quan niệm trong giới nghiên cứu về chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương. Từ đó, khái quát được thực trạng nghiên cứu về chính quyền thành phố trực
5
thuộc Trung ương ở Việt Nam hiện nay như thế nào và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Hai là, luận án là công trình nghiên cứu góp phần làm rõ các khía cạnh lý luận
khác nhau về chính quyền thành thành phố trực thuộc Trung ương. Mặc dù chính quyền
thành phố trực thuộc Trung ương được hình thành ngay từ khi Chính phủ lâm thời Việt
Nam tổ chức chính quyền địa phương năm 1945, nhưng trải dài qua rất nhiều năm, tuy
có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển khu vực, vùng, quốc gia nhưng trên phương
diện khoa học, lại hầu như không được xác định rõ về khái niệm và đặc điểm, phân loại,
thậm chi cả vai trò và các vấn đề khác.
Những vấn đề sẽ được luận án làm rõ là có tính hệ thống về các vấn đề: khái niệm,
đặc điểm, vai trò của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương; nghiên cứu so sánh
với chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương các nước trên thế giới và thực hiện
việc phân loại chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam; làm rõ các
yếu tố ảnh hưởng đang đến việc tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương
nước ta.
Ba là, luận án làm rõ thực trạng tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung
ương hiện nay thông qua việc phân tích, đánh giá toàn diện về tổ chức và hoạt động của
chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương chủ yếu là ở giai đoạn hiện nay trong bối
cảnh đô thị hoá ngay trong đơn vị hành chính thành phố trực thuộc Trung ương; các yêu
cầu của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền và các yêu cầu khác của việc
đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính quyền thành phố
trực thuộc Trung ương nói riêng. Từ tình hình thực tiễn về tổ chức chính quyền thành
phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam hiện nay, nhận diện được những ưu điểm, khiếm
khuyết, hạn chế của tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay
cũng các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về mặt lập pháp và tổ chức thực hiện.
Bốn là, luận án xác định nhu cầu và quan điểm tiếp tục đổi mới chính quyền thành
phố trực thuộc Trung ương tương thích với yêu cầu, điều kiện hiện nay; từ đó, luận án
đề xuất các giải pháp, biện pháp đổi mới tổ chức chính quyền thành phố theo hướng
năng động, dân chủ và quản lý nhà nước, cung ứng dịch vụ công có hiệu quả.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện khoa học, luận án là công trình nghiên cứu có tính chất toàn diện,
hệ thống những vấn đề lý luận về tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương
ở nước ta trong bối cảnh mới. Việc nghiên cứu được thực hiện gắn liền với lịch sử hình
6
thành và phát triển của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương trong lịch sử. Do
đó, kết quả nghiên cứu tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt
Nam một mặt cho thấy được tính quy luật của quá trình phát triển chính quyền mà quan
trọng hơn còn làm sáng tỏ về mặt khoa học vấn đề đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính
quyền thành phố trực thuộc Trung ương trong bối cảnh hiện nay.
Trong ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp nhận thức về thực trạng chính quyền
thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam hiện nay như thế nào và mô hình và giải
pháp đổi mới, hoàn thiện chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương. Từ đó, kết quả
nghiên cứu trong luận án trước hết là tài liệu góp phần cung cấp thông tin tham khảo
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện
thể chế về tổ chức và hoạt động của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương hiện
nay, nhất là trong việc lựa chọn mô hình tổ chức chính quyền và các giải pháp đổi mới,
hoàn thiện chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương. Luận án cũng là công trình
để các nhà quản lý, hoạch định chính sách, cán bộ hoạt động thực tiễn tham khảo trong
quá trình thực hiện đổi mới tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương.
Luận án đồng thời là công trình nghiên cứu có giá trị khoa học góp phần phục vụ
công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo đại học và sau đại học về tổ chức chính quyền,
chủ yếu cho các ngành luật học, hành chính học, là tài liệu tham khảo góp phần phục vụ
việc nghiên cứu, hoàn thiện, đổi mới tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung
ương ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có cơ cấu
gồm bốn chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề nghiên cứu đặt ra cho
đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương.
Chương 3: Thực trạng tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc
Trung ương.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU ĐẶT RA CHO ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu chung về chính quyền địa phương
Các nghiên cứu chung về chính quyền địa phương và nghiên cứu về chính quyền đô
thị nói chung ở nước ta có thể nói có khối lượng khá lớn trong khoảng nếu tính từ năm 2003
khi Nhà nước ban hành Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và sẽ rất lớn
nếu tính tất cả các nghiên cứu về chính quyền địa phương. Có thể điểm một số công trình
nghiên cứu những năm gần đây:
a) Các đề tài, dự án khoa học đề cập chung chính quyền địa phương:
Đề tài khoa học về “Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở các nước
ASEAN” năm (2002), chủ nhiệm đề tài Võ Kim Sơn, nội dung chính bàn về những vấn đề
chung về tổ chức chính quyền địa phương và tổ chức chính quyền địa phương cấp cơ sở, tổ
chức chính quyền địa phương cơ sở các nước ASEAN, hành chính địa phương cấp cơ sở so
sánh – ASEAN, trong đó nhấn mạnh yếu tố tự quản của tổ chức chính quyền địa phương.
Đề tài khoa học: “Cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương đáp
ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” – KX 04.08
thuộc Chương trình KX.04 Xây dựng Nhà nước pháp quyền, do PGS.TS Lê Minh Thông
làm chủ nhiệm đề tài, năm 2005. Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chính quyền địa phương, đặc biệt là tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho việc cải cách hệ thống chính quyền địa
phương đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân ở nước ta. Vấn đề tổ chức đơn vị hành chính, phân chia lãnh thổ cũng đã được
đề cập trong quá trình nghiên cứu đề tài trong tổng thể nội dung nghiên cứu về phân định
các đơn vị hành chính – lãnh thổ trong tổ chức nhà nước ở Việt Nam.
Đề tài cấp bộ “Tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chủ nhiệm PGS.TS. Vũ Thư, Hà Nội, 2016. Đề tài này đã làm
rõ vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương nước ta, từ đó đề xuất các giải pháp đổi
mới, hoàn thiện việc tổ chức quyền lực nhà nước liên quan đến tổ chức. Theo đó, nhóm tác
giả đã làm rõ bản chất và đặc điểm về tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương và chỉ ra
8
bốn yếu tố cơ bản chi phối việc tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương: (i) sự chi phối
của nền chính trị; (ii) tác động của nền kinh tế thị trường; (iii) ảnh hưởng của toàn cầu hóa;
và (iv) vai trò của tư tưởng truyền thống chính trị - pháp lý. Đồng thời, nhóm tác giả cũng
trình bày quá trình tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương từ năm 1945 đến nay trên cơ
sở phân loại giai đoạn tổ chức quyền lực nhà nước theo các bản hiến pháp được ban hành.
Đặc biệt, nghiên cứu cũng đã tập trung làm rõ những vấn đề về tổ chức quyền lực nhà nước
ở địa phương giai đoạn Hiến pháp năm 2013 sau những năm thi hành và rút ra một số nhận
xét về tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương. Trên cơ sở xác định nhu cầu và phân tích
các quan điểm, đổi mới, hoàn thiện tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nhóm nghiên
cứu đã đề suất một số giải pháp đổi mới, hoàn thiện tổ chức quyền lực ở địa phương. Và
khẳng định rằng, cần tổ chức được quyền lực nhà nước ở địa phương đặc ứng các yêu cầu
về chính quyền có hiệu lực, hiệu quả, phát triển mạnh kinh tế xã hội và các mặt khác ở địa
phương, dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và quyền được kiểm soát.
Đề tài khoa học cấp Bộ, “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân địa phương (góp phần sửa đổi Chế định HĐND trong Hiến
pháp 1992”, Chủ nhiệm: Thái Vĩnh Thắng, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2013. Với mục tiêu là
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
địa phương ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần sửa đổi chế định hội đồng nhân dân trong
Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003 nhóm tác giả
đã: phân tích, luận giải cơ sở lý luận của tổ chức chính quyền địa phương nói chung và
HĐND nói riêng ở nước ta; phân tích, làm rõ thực trạng với những ưu điểm, thành tựu và
những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta. Đồng thời, đề tài
cũng phân tích được các mô hình tổ chức hội đồng địa phương trên thế giới và đưa ra những
kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra các phương hướng và giải
pháp khoa học đúng đắn, hợp lý về đổi mới tổ chức và hoạt động nhằm nâng cao chất lượng
tổ chức và hoạt động của HĐND ở Việt Nam.
Báo cáo Dự án “Điều tra thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân dân các cấp đáp ứng yêu cầu tổ chức hợp lý chính quyền địa phương
ở nước ta” do Viện Khoa học Tổ chức nhà nước Bộ Nội vụ thực hiện, năm 2013. Theo đó,
Dự án tập trung nghiên cứu những vấn đề thực trạng tổ chức và hoạt động của UBND các
cấp và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động cảu UBND các cấp đáp ứng yêu
9
cầu tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta. Từ những thực trạng đó, Dự án đã
đưa ra 05 yêu cầu hoàn thiện, bao gồm: (1) Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND
các cấp trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước. (2) Hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của UBND các cấp nhằm mục tiêu tinh gọn tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương; phục vụ người dân tốt hơn. (3) Hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của UBND các cấp đồng bộ với cải cách mô hình tổ chức, hoạt
động của HĐND và của các tổ chức. (4) Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND các
cấp phù hợp với đặc điểm, tính chất của quản lý hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn,
hải đảo. (5) Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND các cấp trên cơ sở kế thừa những
thành tựu đã đạt được, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Xuất phát từ những yêu cầu cần hoàn thiện nêu trên, Dự án đã đưa ra 06 giải pháp,cụ thể:
(1) Tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về cải cách tổ chức và hoạt động
của UBND các cấp. (2) Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của UBND mỗi cấp theo yêu cầu
đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. (3) Đổi mới mô hình tổ chức cơ quan hành chính nhà
nước ở đô thị. (4) Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND với Chủ tịch
UBND theo hướng đề cao vai trò trách nhiệm người đứng đầu UBND các cấp. (5) Nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của
UBND các cấp. (6) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương (CQĐP) được thực hiện theo Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII. Ban Soạn thảo Dự án Luật Tổ chức
CQĐP đã tố chức tổng kết đánh giá toàn diện việc thi hành Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 và kết quả thực hiện nghị quyết của Quốc hội về thực hiện thí điểm mô hình tố
chức chính quyền không có HĐND cấp quận/ huyện. Trên cơ sở lý luận về lập pháp và thực
tiễn thực hiện pháp luật về CQĐP; quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương, Ban soạn
thảo đã xây dựng Dự án Luật Tổ chức CQĐP đề Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến tại
kỳ họp thứ 8 và thông qua tại kỳ họp thứ 9. Trên cơ sở ý kiến tại Phiên họp lần thứ 31 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ tiếp thu, hoàn thiện Dự án
Luật Tổ chức CQĐP. Trong Dự án Luật Tổ chức CQĐP, có nhiều báo cáo giải trình khoa
học được minh họa bằng những số liệu điều tra xã hội cụ thể, thuyết phục để chỉ ra những
bất cập, hạn chế của về mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP. Ở khu vực địa phương,
có sự so sánh, để xây dựng tổ chức chính quyền phù hợp với khu vực đô thị và khu vực
nông thôn. Từ đó các quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương
10
cho mỗi khu vực trong Luật Tổ chức CQĐP được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
19/6/2015. Những báo cáo, giải trình cùng với các quy phạm được thể chế hóa trong Luật
Tổ chức CQĐP năm 2015 là cơ sở pháp lý, lý luận khoa học quan trọng để tiếp tục nghiên
cứu, đề xuất hoàn thiện hơn pháp luật về CQĐP nói chung và CQĐT nói riêng.
Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chương trình phát triển của
Liên hợp quốc, “Báo cáo kết quả các nghiên cứu chuyên đề phục vụ sửa đổi Hiến pháp 1992”,
(Chỉ đạo biên soạn: Đinh Xuân Thảo, Hoàng Văn Tú), Hà Nội, 2013. Báo cáo nghiên cứu
cho thấy, vị trí, vai trò của Quốc hội trong dự thảo Hiến pháp giữ nguyên quy định như Hiến
pháp năm 1992. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, dự thảo Hiến pháp chưa cho thấy sự
khác biệt về nguồn gốc, chủ thể và cơ chế thực hiện chức năng lập hiến của Quốc hội so với
chức năng lập pháp, cũng như chưa mạnh dạn thể chế hóa quan điểm quyền làm chủ của nhân
dân. Về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hiện nay, mỗi cấp
hành chính phải có HĐND, UBND và cần có cơ chế để kiểm soát quyền lực.
b) Các sách đề cập chính quyền địa phương:
Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Hữu Đức (Đồng chủ biên) (1998), “Cải cách
hành chính địa phương: Lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách
đề cập đến nhiều nội dung của cải cách hành chính địa phương như: những xu hướng cải
cách chính quyền địa phương, vấn đề tập trung, phân quyền, tản quyền trong nền hành chính
địa phương... Tuy nhiên, các nội dung về tổ chức đơn vị hành chính các cấp nói chung và
đơn vị hành chính cấp xã lại chưa được đề cập nhiều.
Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (Đồng chủ biên) (2002), “Những vấn đề lý luận
và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay”, NXB. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Trong cuốn sách này đã bàn về địa phương và việc tổ chức CQĐP ở những khía
cạnh cụ thể như: (i) kinh nghiệm lịch sử trong xây dựng và phát triển CQĐP ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, qua đó nhấn mạnh việc đổi mới tổ chức CQĐP có sự phân biệt giữa
nông thôn và thành thị. Đặc biệt là đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP cấp tỉnh như
tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND, nhóm tác giả cho rằng: CQĐP cấp tỉnh có một
bộ máy khá hoàn chỉnh như một nhà nước thu nhỏ, mặc dù HĐND tỉnh không có quyền lập
pháp nhưng lại có quyền lập quy và có quyền hạn khá lớn trong các lĩnh vực như tự chủ
ngân sách, tài chính. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ cục bộ địa phương vượt ra ngoài tầm
lãnh đạo, kiểm soát của chính quyền Trung ương; (ii) phân tích các mô hình tổ chức CQĐP
một số nước trên thế giới (khối các nước châu Á– Thái Bình Dương) trong đó nhấn mạnh
11
đến các yếu tố cấu thành mô hình tổ chức CQĐP như: bối cảnh về địa lý kinh tế; cơ cấu tổ
chức của Chính phủ; lịch sử, chính trị pháp lý; nền văn hóa và tín ngưỡng. Do vậy, những
nước thuộc tiểu lục Ấn độ: (1) Bawngladet, Ấn Độ, Xrianca L và Pakixtan mô hình CQĐP
và TQĐP chịu ảnh hưởng bởi mô hình CQĐP của Anh vì đây là những nước thuộc địa của
Anh; (2) các nước Đông Bắc Á: Nhật Bản, Hàn Quốc là những nước có tương đồng về văn
hóa, chính trị nhưng hệ thống CQĐP và mức độ TQĐP của các nước này khác nhau; (3)
những nước Đông Nam Á: Indonexia, Malaixia, Philippin và Thái Lan có một hệ thống
CQĐP rất phong phú do sự ảnh hưởng về tư tưởng và là những nước thuộc địa của Hà Lan,
Anh nên việc xây dựng mô hình CQĐP theo phương thức công nhận hai nguyên tắc trong
tự quản ở cấp địa phương là tản quyền và phi tập trung hóa; (4) những nước lục địa châu
Đại Dương: Oxtraylia và Newzilan CQĐP và TQĐP bị ảnh hưởng nhiều bởi mô hình
CQĐPTQ của Anh mặc dù gần đây các nước này đã bắt đầu cải cách và ảnh hưởng rất lớn
đến việc tổ chức CQĐP hướng tới hiệu quả cao trong việc thực hiện công việc ở cả cấp nhà
nước và cấp địa phương; (5) các nước XHCN: Trung Quốc và Kirgixtan cũng có nhiều loại
mô hình CQĐP khác nhau như: cơ quan tự quản, chính quyền tự trị từng khu dân tộc, chính
quyền đặc khu... Nhưng tựu chung lại tất cả các mô hình CQĐP và TQĐP này đều được
quy định trong Hiến pháp và văn bản Luật; có khuôn mẫu chung là tách biệt Hội đồng ra
khỏi cơ quan hành pháp; có xu hướng xây dựng hình thức CQĐP dân chủ hơn thông qua
việc cho phép người dân tham gia nhiều hơn vào việc lựa chọn các quan chức địa phương.
Ngoài ra trong cuốn sách này nhóm tác giả cũng dành một chương phân tích bối cảnh và
lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn từ Hiến chương Châu Âu về soạn thảo, xây dựng Hiến
chương quốc tế về TQĐP.
Bùi Xuân Đức, “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay”,
NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004. Cuốn sách này chủ yếu đề cập những vấn đề chung về đổi
mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, tổ chức và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta; đổi mới, hoàn thiện
hệ thống các cơ quan hành chính; những quan điểm tổng thể về đổi mới chính quyền địa
phương các cấp; chính quyền địa phương và đô thị trong điều kiện đổi mới, hội nhập quốc
tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Lê Minh Thông (2011), “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. Theo tác giả thì
việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải xây dựng được khung pháp lý về tổ chức và hoạt
12
động của CQĐP. Theo đó cần thiết phải có sự đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt
động của CQĐP; đa dạng hóa cấu trúc tổ chức ở các cấp độ ĐVHCLT khác nhau, thông
qua mô hình chính quyền hoàn chỉnh gắn liền với quyền tự chủ và mức độ TQĐP và mô
hình chính quyền không hoàn chỉnh gắn liền với việc thực hiện khả năng điều phối, phối
hợp hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính trong những phạm vi xác định.
Đây có thể xem như là tiền đề cho việc chấp nhận sự hình thành một loại đơn vị hành chính
mới so với các loại hình đơn vị hành chính truyền thống đó là đơn vị hành chính tự quản.
Trong cuốn sách “Tổ chức và hoạt động của CQĐP ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Trương Thị Hồng Hà (2017) đã khái quát về CQĐP ở Việt Nam như: quan niệm, đặc điểm,
nguyên tắc tổ chức CQĐP, ĐVHC, chính quyền đô thị - nông thôn, phân quyền, phân cấp,
ủy quyền, vùng, liên kết vùng – mối quan hệ giữa các địa phương; vị trí, nhiệm vụ, quyền
hạn của CQĐP; vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của HĐND; vị trí,
chức năng, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND. Tiếp đó tác giả đi phân tích tổ
chức và hoạt động mô hình CQĐP một số nước trên thế giới, nhận xét đánh giá và rút ra
kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam. Bên cạnh đó bàn về quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐP ở Việt Nam qua 05 bản Hiến pháp và
văn bản Luật. Đặc biệt, đề cập đến những vấn đề đặt ra trong quá trình tổ chức thực hiện
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 vào cuộc sống và khẳng định cần phải được đa dạng hóa
mô hình tổ chức CQĐP cho phù hợp với sự phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế.
Marguerite J.fisher and Donal G. Bishop “Municipal and other local governments”.
(Chính quyền địa phương và chính quyền thành phố), Prentice - Hall. Inc. New york 1950.
Cuốn sách bàn về tổ chức chính quyền tại các thành phố lớn ở Hoa Kỳ với tư cách là một
dạng CQĐP. Ở đó vai trò của CQĐP có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày của người dân, bới CQĐP không chỉ là nơi cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho công
dân như: y tế, giáo dục, việc làm, giao thông công cộng, ...mà còn là trường học của quyền
công dân - nơi người dân có cơ hội được thực tế trải nghiệm quyền làm chủ thuộc về “chúng
ta” họ; là “sân khấu” cho các hoạt động công dân - người dân tham gia vào hoạt động quản
lý các vấn đề của địa phương có ý nghĩa của địa phương. Bên cạnh đó, CQĐP còn được
xem như là cơ sở đào tạo cho các nhà hoạt động chính trị, giúp họ tạo lập vị trí trong nền
chính trị nói chung và là bệ phóng để ứng cử cho các vị trí trong CQTW và nền chính trị
nói chung. Ngoài ra, CQĐP cũng là “phòng thí nghiệm” cho những ứng dụng công nghệ và
chính sách mới của Chính phủ và các hoạt động quản lý.
13
S. Chiavo - Compo và P.S.A “Suradam (2003) “Serving and maintaining; Improve
public administration in a competitive world” (Phục vụ và duy trì: cải thiện hành chính
công trong một thế giới cạnh tranh) được NXB Chính trị quốc gia phát hành dưới sự tài trợ
của Ngân hàng Phát triển Châu Á. Nhóm tác giả đưa ra khái niệm “Chính quyền địa phương
thường được hiểu là những đơn vị của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công
dân tại cấp trung gian thấp và thấp nhất”. Có thể nói, đây là một quan điểm khá thiết thực
cho chúng ta liên hệ nghiên cứu một tổ chức chính quyền địa phương có chức năng chính
là cung cấp các dịch vụ công và xây dựng nền hành chính phục vụ tại khu vực đô thị. Trong
bài viết cũng có nhận định khái quát quan trọng để khi chúng ta tiếp thu kinh nghiệm quốc
tế về vấn đề tự quản địa phương. Từ đó nhóm tác giả đã khẳng định, sự chậm trễ trong việc
hoàn thiện chính quyền địa phương ở Việt Nam không nằm ngoài thực tế tại một số nước
ở châu Âu đó là: các đơn vị chính quyền địa phương đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi
các quốc gia được thành lập với cơ cấu tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không
cần có sự phân cấp thẩm quyền từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Ngược lại,
các nước đang phát triển lại bắt đầu từ việc xây dựng chính quyền Trung ương vững mạnh
sau khi giành độc lập, và nhìn chung, thói quen quản lý, điều hành các địa phương thường
không có truyền thống ăn sâu, bám rễ lâu dài.
Theo B.E. Smith trong tác phẩm “Local Government Federal- decentralized systems
Unitary - decentralized systems” (2008) (Chính quyền địa phương hệ thống phi tập trung
liên bang – Đơn nhất hệ thống phi tập trung) tác giả cho rằng CQĐP như là một tổ chức
công được ủy quyền để quyết định các chính sách công và quản lý những vấn đề trong phạm
vi một lãnh thổ nhỏ (phân khu) của chính quyền khu vực hoặc quốc gia. Theo tác giả cấu
trúc chính của CQĐP được xác định bởi các yếu tố như: truyền thống quốc gia và địa
phương; phong tục tập quán; áp lực chính trị; sự ảnh hưởng của đảng phái; tính chuyên
nghiệp quan liêu; sự kiểm soát nguồn lực kinh tế; các tổ chức xã hội và tín ngưỡng để minh
chứng cho điều này tác giả kế thừa nghiên cứu tác phẩm “Cấu trúc của CQĐP; Nghiên cứu
so sánh giữa 81 quốc gia” của hai tác giả Samuel Humes và Eileen Martin. Do vậy, bất kỳ
một cơ quan CQĐP nào nằm trong một quốc gia một đảng lãnh đạo toàn diện hay trong
quốc gia đa đảng (một chế độ dân chủ) đều có các yếu tố cấu thành trên nên, trên thế giới
có hàng trăm ngàn loại CQĐP khác nhau.
Tác giả Ann Bowman và Richard Kearney trong cuốn “State and Local Government”
(2011) (Nhà nước và chính quyền địa phương) đã trình bày mô hình CQĐP và kinh nghiệm
14
phân quyền giữa các cấp CQĐP ở Hoa Kỳ. Các tác giả lưu ý các khía cạnh cơ bản như thẩm
quyền quản lý, chức năng của CQĐP (loại vụ việc nào cần phải có sự tham gia của công
chúng; trường hợp nào phải công khai hóa; loại dịch vụ, hàng hóa công cộng nào thuộc độc
quyền của CQTW, CQĐP hoặc thuộc dạng cả CQTW và CQĐP đều nên phối hợp cung
cấp); tài chính (nguồn thu/khoản chi, yêu cầu về cân bằng ngân sách); nhân sự; cơ cấu tổ
chức bộ máy; quy trình ra quyết định (trình tự, thủ tục của việc đảm bảo tính minh bạch của
chính quyền,...); quy định tiêu chuẩn hàng hóa, dịch vụ công của CQĐP sẽ do CQĐP tự
quy định hay phải theo chuẩn mực của CQTW
Ngoài ra, còn một số công trình có giá trị tham khảo như sau: (1) Vũ Như Giới, “Về
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân”, NXB Pháp lý, Hà Nội 1994. (2)
Nguyễn Đăng Dung (1997), “Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương”, NXB Đồng
Nai, Đồng Nai. (3) Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung và Nguyễn Ngọc Chí làm (đồng
chủ biên) (2011), “Phân cấp cấp quản lý nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và triển vọng”,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội. (4) Võ Kim Cương (2004), “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển
đổi”, NXB Xây dựng, Hà Nội, 2004. (5) Uông Chu Lưu (chủ biên) (2014), “Những vấn đề
lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà
Nội. (6) J.M.Cohen và S.B Peterson (2002), “Phân cấp quản lý hành chính – Chiến lược
cho các nước đang phát triển”, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. (7) Nguyễn Đăng Dung,
“Hội đồng nhân dân trong nhà nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2012. (8) Đào
Trí Úc (Chủ biên) (2007), “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
c) Hội thảo khoa học đề cập chính quyền địa phương
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, “Hội thảo khoa học: Chính quyền địa phương
trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, được tổ chức ngày 20/12/2008. Với 19 bài viết
các tác giả đã tập trung phân tích ở những góc độ khác nhau về lý luận và thực tiễn của
chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
và trên thế giới.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Đóng góp ý kiến về dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Hà Nội, 2013; Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ
yếu hội thảo hội thảo “Định hướng và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”,
Hà Nội, 2012; Viện Nhà nước và Pháp luật và Eoropean Union to Vietnam, Kỷ yếu “Xây
dựng pháp luật và bảo vệ Hiến pháp – Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam”, Hà Nội, 2012.
15