1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện đạihóa (CNH, HĐH) đã
và đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ thời đại thì CNH, HĐH chỉ có thể thành công vàđược rút ngắn khi có chiến
lược đúng đắn, gắn với các chính sách, giải pháp điều hành phù hợp với những
biến động của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ đã sớm thành công trong công nghiệp hoávà gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong đó có Đài Loan. Sự thành công của Đài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự định hướng và điều tiết của nhà nước. Điều đó đã để lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối vớiCNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đổi mới của Đảng ta đạt
được những thành tựu quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước tađang đứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn đối với CNH, HĐH trongđiều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó càng khẳng định vai trò cần thiết
của nhà nước trong định hướng, điều hành CNH, HĐH ởnước ta.
Đó là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến luận án
Về vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH trong hội nhập kinh
tế quốc tế đã được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phântích. Nghiên cứu về Đài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanhcủa Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế Đài Loancủa Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lýthuyết tân cổ điển và thực
tiễn Đài Loancủa Wade (1988) [96]; Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệphoá mới Đông Ácủa Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu được tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ Đông Ácủa Ngân hàng thế giới (2002) [57] có đề cập đến vấn đề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số
nước Đông Á. Gần đây, công trình Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nướccủa Li Tan (2008) [71] đã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vàonhà nước để luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước đối với công nghiệp hoáở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á, trong đó có Đài Loan
Ở trong nước, một số nghiên cứu có đề cập đến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác động đến tiến trình côngnghiệp hoá, hiện đại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á như: Kinh tế Đài Loan - Tình hình và
chính sáchcủa Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Namcủa Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. Đặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu
Ácủa Đỗ Đức Định (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Những bài học
thành công của Đông Ádo Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh
tế đang phát triển ở châu Ácủa Đỗ Đức Định (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và
thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông
Ádo Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn đề về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Namcủa Đỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tếcủa Đỗ Đức Định (2004) [34] đã
đề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nướcnhằm thúc đẩy CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước Đông Á, trong có có Đài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác độ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của đề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước có nền kinh tế ở điểm
xuất phát thấp đang thực hiện CNH, HĐH nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trònhà nước đối với
CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) để rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HĐH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm vềvai trò của nhà
nước đối với CNH, HĐH trong quá trình hội nhập kinhtế quốc tế của Đài Loan
với nước ta hiện nay. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả
thi trong vận dụng các kinh nghiệm đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH,HĐH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn đề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HĐH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác động vào tiến trình CNH, HĐH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 đến năm 2003. Luậnán lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ đầu những năm 1960, Đài Loan đã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào đời sống kinh tế quốc tế. Đến năm 2003, Đài Loan chính thức là thành viên
của WTO được khoảng 2 năm (Đài Loan trở thành thànhviên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục đích của luận án là làm rõ những điều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước Đài Loan cho phùhợp với những quy định
của WTO và tác động của nó đến tình hình kinh tế - xã hội. Điều này tương đồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước Đài Loan từ sau năm 2003 đến nay cũng
được luận án nghiên cứu để làm rõ vai trò tích cực của nhà nước đối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án đã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp đối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế để làm rõ nội dung nghiên cứu. Đồng thời trong nghiên cứu, tác
giả đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứucủa một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài
Loan vào nước ta hiện nay.
223 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của Nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961-2003): Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận án
Trần Khánh Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
6
1.1. Những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong hội nhập kinh tế
quốc tế
6
1.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế
23
Chương 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN
(THỜI KỲ 1961 – 2003) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
60
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Đài Loan giai đoạn 1949 - 1960 60
2.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003)
68
2.3. Một số bài học kinh nghiệm của Đài Loan về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
114
Chương 3: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN VÀO NƯỚC TA
HIỆN NAY
128
3.1. Khái quát về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta từ 1986 đến nay
128
3.2. Một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đài Loan khi thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
162
3.3. Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan vào
nước ta hiện nay
170
KẾT LUẬN 198
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 201
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 202
PHỤ LỤC 211
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
ADB Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Asean Free Trade Area
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tê châu Á -
Thái Bình Dương
Asia-Pacific Economic
Cooperation
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á Association of South East Asian
Nations
ASEM Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu Asean European Meeting
CEPT Chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung
Common Effective Preferential
Tariff
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DNVVN
EU
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Liên minh châu Âu
Europe Union
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment
FTA Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement
GATT Hiệp định chung về thương mại
và thuế quan
General Agreement on Trade
and Tariff
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
ICOR Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng Incremental Capital-Output
Ratio
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế International Moneytary Fund
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ North American Free Trade
Area
NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới New Industrialization
Economies
NT$ Đài tệ (tiền Đài Loan) New Taiwan Dollar
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức
Official Development
Assisstance
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế
Organization for Economic Co-
operation and Development
R&D Nghiên cứu và phát triển Research and Development
TBCN Tư bản chủ nghĩa
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp Total Factor Productivities
TNCs Các công ty xuyên quốc gia Transnational Corporations
TW Trung ương
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp
của Liên hợp quốc
United Nation for Industrial
Development Organization
USD Đồng Đô la Mỹ United States Dollar
WB Ngân hàng thế giới World Bank
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới World Economic Forum
WTO Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organisation
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tr
Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá 46
Bảng 2.1: Chi tiêu cho R&D của Đài Loan 99
Bảng 2.2: Chỉ số phát triển khoa học công nghệ Đài Loan (1997 - 2002) 101
Bảng 2.3: Nguồn tăng trưởng của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 108
Bảng 3.1: Cơ cấu tổng vốn đầu tư thực hiện giai đoạn (1991 - 2006) 140
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn 141
Bảng 3.3: Cơ cấu ngành trong GDP (%) 142
Bảng 3.4: Xuất khẩu và GDP 142
Bảng 3.5: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 143
Bảng 3.6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 163
Bảng 3.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 164
Bảng 3.8: Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam và Đài Loan 164
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Đài Loan giai đoạn 1960-1982 85
Hình 2.2: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 1983 86
Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn 1960 -1982 87
Hình 2.4: Đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan (1995 - 2006) 97
Hình 2.5: Tăng trưởng kinh tế của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2006) 107
Hình 2.6: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 2003 109
Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 109
Hình 2.8: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Đài Loan 110
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã
và đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ thời đại thì CNH, HĐH chỉ có thể thành công và được rút ngắn khi có chiến
lược đúng đắn, gắn với các chính sách, giải pháp điều hành phù hợp với những
biến động của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ đã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong đó có Đài Loan. Sự thành công của Đài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự định hướng và điều tiết của nhà nước. Điều đó đã để lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đổi mới của Đảng ta đạt
được những thành tựu quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta đang đứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn đối với CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó càng khẳng định vai trò cần thiết
của nhà nước trong định hướng, điều hành CNH, HĐH ở nước ta.
Đó là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.
2
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến luận án
Về vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH trong hội nhập kinh
tế quốc tế đã được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích. Nghiên cứu về Đài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanh của Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế Đài Loan của Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lý thuyết tân cổ điển và thực
tiễn Đài Loan của Wade (1988) [96]; Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệp hoá mới Đông Á của Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu được tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ Đông Á của Ngân hàng thế giới (2002) [57] có đề cập đến vấn đề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số
nước Đông Á. Gần đây, công trình Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước của Li Tan (2008) [71] đã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước để luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước đối với công nghiệp hoá ở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á, trong đó có Đài Loan…
Ở trong nước, một số nghiên cứu có đề cập đến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác động đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á như: Kinh tế Đài Loan - Tình hình và
chính sách của Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam của Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. Đặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu
Á của Đỗ Đức Định (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Những bài học
thành công của Đông Á do Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh
3
tế đang phát triển ở châu Á của Đỗ Đức Định (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và
thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông
Á do Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn đề về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam của Đỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tế của Đỗ Đức Định (2004) [34]… đã
đề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước Đông Á, trong có có Đài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác độ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của đề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước có nền kinh tế ở điểm
xuất phát thấp đang thực hiện CNH, HĐH nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trò nhà nước đối với
CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) để rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HĐH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với CNH, HĐH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan
4
với nước ta hiện nay. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả
thi trong vận dụng các kinh nghiệm đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH, HĐH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn đề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HĐH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác động vào tiến trình CNH, HĐH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 đến năm 2003. Luận án lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ đầu những năm 1960, Đài Loan đã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào đời sống kinh tế quốc tế. Đến năm 2003, Đài Loan chính thức là thành viên
của WTO được khoảng 2 năm (Đài Loan trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục đích của luận án là làm rõ những điều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước Đài Loan cho phù hợp với những quy định
của WTO và tác động của nó đến tình hình kinh tế - xã hội. Điều này tương đồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước Đài Loan từ sau năm 2003 đến nay cũng
được luận án nghiên cứu để làm rõ vai trò tích cực của nhà nước đối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án đã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp đối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế để làm rõ nội dung nghiên cứu. Đồng thời trong nghiên cứu, tác
5
giả đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài
Loan vào nước ta hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Trong lịch sử xã hội loài người, công nghiệp hoá là con đường tất yếu để
phần lớn các quốc gia trên thế giới phát triển và tiến tới hiện đại, văn minh. Thực
tiễn ở nhiều nước cho thấy, công nghiệp hoá diễn ra rất phong phú, đa dạng về
mô hình bởi nó là quá trình phức tạp và bao hàm phạm vi rộng lớn. Do thời điểm
xuất phát và phương thức tiến hành khác nhau nên bản thân khái niệm công
nghiệp hoá cũng được quan niệm theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo tổng
kết của UNIDO thì có đến 128 cách định nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Thực tế, công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính chất lịch sử. Tuỳ
theo góc độ nhìn nhận mà người ta nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của công
nghiệp hoá để đưa ra những quan niệm khác nhau. Những quan niệm đó có thể
quy về một số dạng cơ bản sau:
- Cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh và
sau đó lan sang các nước tư bản khác thì công nghiệp hoá được hiểu là đưa đặc
tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp... [40, tr. 48]. Do vậy, các nước này chủ yếu tập trung
vào phát triển các ngành công nghiệp và sự chuyển biến về kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. Quan niệm này có nhiều mặt không hợp
lý: nó không cho thấy mục tiêu cần đạt của quá trình công nghiệp hoá; nó gần
7
như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp; và nó
không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
- Khi nền công nghiệp chuyển biến nhanh chóng từ kỹ thuật cơ khí giản
đơn với máy hơi nước làm động lực sang cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong,
điện năng làm động lực thì quan niệm công nghiệp hoá đã được mở rộng, không
chỉ đơn thuần là phát triển nền công nghiệp thành lĩnh vực đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, mà còn là biến tất cả các hoạt động sản xuất khác thành loại
hình hoạt động công nghiệp.
- Từ 1926, Liên Xô bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù trước đó chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức
độ nhất định nhưng nếu so với phương Tây lúc đó thì Liên Xô vẫn thiếu một hệ
thống công nghiệp nặng hoàn chỉnh và kinh tế tiểu nông vẫn còn tồn tại khá phổ
biến. Bên cạnh đó, Liên Xô còn bị phương Tây bao vây phong toả về kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tập trung cao độ cho phát
triển công nghiệp nặng. Điều này bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quốc phòng. Do
vậy, công nghiệp hoá được quan niệm là “Quá trình xây dựng nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công
nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” [40, tr. 49]. Quan niệm này
phù hợp với điều kiện của Liên Xô thời kỳ đó. Trong quá trình thực hiện, mặc dù
có sự chú trọng nhất định đến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp nhưng bao giờ
công nghiệp nặng cũng được coi như một tiền đề có ý nghĩa quyết định đến sự
toàn thắng của công nghiệp hoá cũng như sự sống còn của đất nước.
- Năm 1963, UNIDO đưa ra khái niệm: "Công nghiệp hoá là một quá trình
phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận
chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng,
có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo
8
đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Quan niệm này chứa đựng sự dung hoà các
ý kiến cho rằng quá trình công nghiệp hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
về mặt xã hội [40, tr. 51].
Nhìn chung, mỗi cách quan niệm về công nghiệp hoá trên đây đều có
nhân tố hợp lý, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và gắn với những yêu cầu đặt
ra trong phát triển. Tuy nhiên, những quan niệm này mới chỉ đề cập đến khía
cạnh vật chất - kỹ thuật mà chưa đề cập đến một vấn đề cũng rất quan trọng là
khía cạnh cơ chế, thể chế. Bởi ngoài mục tiêu, những nội dung chủ yếu thì
phương thức thực hiện hay cách thức, cơ chế phân bổ sử dụng các nguồn lực
cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại
trong công nghiệp hoá.
Từ thực tế ấy, tác giả của luận án cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc khép kín với
lao động thủ công là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp, vận hành theo
cơ chế thị trường dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển ở trình độ
cao, với lao động bằng máy móc, kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế nhằm tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Với quan niệm như vậy, công nghiệp hoá là quá trình cải biến toàn diện
nền kinh tế. Ở khía cạnh vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hoá là quá trình chuyển
biến căn bản trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, từ tình trạng lạc hậu, dựa vào
phương pháp thủ công là chủ yếu sang nền kinh tế sản xuất dựa vào tiến bộ khoa
học - công nghệ mới nhất đem lại năng suất, chất lượng và hiệu suất cao. Còn ở
khía cạnh cơ chế, thể chế thì công nghiệp hoá là quá trình cải biến thể chế và cấu
trúc của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, từ nền kinh tế hiện vật - tự cấp, tự
túc, khép kín sang nền kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường. Cả lý thuyết và
thực tiễn đều đã chứng minh, cơ chế thị trường thường là một phương thức tốt để
9
tổ chức hoạt động kinh tế, nó cho phép phân bổ các nguồn lực xã hội một cách
hiệu quả. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ là điều kiện tiền đề mà là điều
kiện không thể thiếu cho cả quá trình công nghiệp hoá không chỉ ở các nước phát
triển đi trước mà cả ở các nước đang phát triển ngày nay.
Đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác
định hệ thống các tiêu chí đánh giá về công nghiệp hoá bởi các quan điểm được
đưa ra bao quát một diện rộng nhưng lại thiếu sự phân loại và xác định rõ chuẩn
mực với từng lĩnh vực, từng yếu tố. Mặc dù vậy, tác giả luận án cho rằng, có thể
dựa vào 3 nhóm tiêu chí chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch