Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷthứba và đangđứng
trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái
TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thếgiới đương đại. Tình
trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽlàm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ
sinh thái tựnhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tếcũng
như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng
lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân: sựchưa hoàn thiệncủa kỹthuật, công nghệkhai thác, chếbiến
TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do
trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉchú trọng, ưu tiên cho
mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệMTST. Đểbảo vệMTST,
chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần
phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệgiữa TTKT và bảo vệMTST.
Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc
gia đang theo đuổi trongthếkỷXXI.
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thếgiới, ởViệt Nam, do tác
động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủyếu
vào khai thác TNTN và các yếu tốMT, nên chất lượng MTST ởViệt Nam thời
gian qua suy giảm nhanh. Các hệsinh thái tựnhiên bịthu hẹp diện tích, xuống
cấp vềchất lượng, nhiều nguồn TNTNbịsuy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm
bảo nguồn cung Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT XH, ảnh hưởng không nhỏtới tốc độtăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an
ninh lương thực, an ninh MTvà sức khỏe cộng đồng,đe dọa nghiêm trọng tới
tiến trình PTBV ởViệt Nam.
Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
2
triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát
triển nhanh, hiệu quảvà bền vững, tăng trưởng kinh tếđi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệmội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờthực hiện
mô hình này, nền kinh tếthịtrường định hướng XHCH ởnước ta được hình
thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có nền kinh tếtăng trưởng cao trong khu vực
176 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môI trường sinh tháI ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh
NguyÔn ThÞ Kh¬ng
Vai trß cña nhµ níc trong viÖc kÕt hîp
gi÷a t¨ng trëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I trêng
sinh th¸I ë níc ta hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS TrÇn thµnh
2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn
Hµ néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận
nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Khương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng
kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20
Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ
KẾT HỢP ĐÓ 28
2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái -
yêu cầu của sự phát triển bền vững 28
2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái 49
Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 70
3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính
sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70
3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84
3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình
trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ 97
Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAOVAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH
THÁIỞ VIỆT NAM HIỆN NAY 113
4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính
sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113
4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái 126
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra
sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN : Công nghệ
CT - XH : Chính trị - xã hội
ĐT : Đào tạo
GD : Giáo dục
KH : Khoa học
KT - XH : Kinh tế - xã hội
MT : Môi trường
MTST : Môi trường sinh thái
Nxb : Nhà xuất bản
PTBV : Phát triển bền vững
TN - MT : Tài nguyên - môi trường
TNTN : Tài nguyên thiên nhiên
TTKT : Tăng trưởng kinh tế
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng
trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái
TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình
trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ
sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng
như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng
lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến
TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do
trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho
mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST,
chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần
phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc
gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI.
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác
động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu
vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời
gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống
cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm
bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT -
XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an
ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới
tiến trình PTBV ở Việt Nam.
Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
2triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực hiện
mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được hình
thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực.
Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn
đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng
bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong
việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì
việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn
lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi
đã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá là
một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây
ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng
trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển
kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều
ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT
nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên
MT. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưa
theo kịp với yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức
quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa
phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi
trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu
kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải
quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực
3hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng
của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân.
Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát
triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới
có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà
nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính
sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện
thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT,
đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần
chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST…
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà
nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ
những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước
trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc
nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, qua đó,
đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong
kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và
những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
4- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước
trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết
học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể
hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong
khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa
học có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với
các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp -
diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
5- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và
Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
- Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai
trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo
vệ MTST.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian
qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường…
Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT
là mở rộng quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm
năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự
tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của
thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái
niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường
được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp khác [127], [144].
Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu
sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao
tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau:
Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần
Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng
[147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như:
Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ
điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội
dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình
7toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc
gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay,
các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và
khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại
nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình
kinh tế đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho
kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững.
Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”,
được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận
chính trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta
đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP
đạt khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước
có sự tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148,
tr.48], “tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo
cũng khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủ
yếu vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm qua
nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao
năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế
thấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu
xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa
các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản
lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là
những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ lạc
hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54].
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong
8những năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc
gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tế
cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy
nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn
theo bề rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng
lao động; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức
cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44,
tr.61]. Do đó, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo
bề rộng là chủ yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa
trên nền tảng coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăng
trưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang
tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều
năng lượng, TNTN, tăng các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng
gió. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn
nhân lực chất lượng cao; phát triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực
phát triển đất nước, cần mạnh dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử
dụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm các kết luận sau thanh tra, kiểm tra.
Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức
Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Về
các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa
TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa
TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển
văn hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan
hệ giữa TTKT với bảo vệ MT... Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan
hệ cơ bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi
9hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội
dung về mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ở
nước ta, kể từ khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại
ngày một xuống cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp
lý để giải quyết dứt điểm tình trạng này.
Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt
Nam. Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn
cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể
hiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất,
tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu
người và một số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi
xã hội, công bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các
tác giả đã chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt
Nam tăng trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho
thấy, nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm
TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà
Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng
đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản
nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi
trường sinh thái
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá
nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau.
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo
vệ MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người
10
được sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước,
Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết
về MTST và bảo vệ MTST. Trong mộ