PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hầu hết nhà nước đều có nhiệm vụ chung là nghiên cứu, đánh giá tình
hình thực tế, so sánh và đối chiếu với các luật, điều khoản Hiến pháp hiện hành,
đưa ra những lập luận chính xác để quyết định hướng giải quyết cho những vấn
đề cấp bách, quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh cũng như sự phát triển
của một quốc gia. Vì tính chất quan trọng của chúng, pháp luật thường đặt ra
những yêu cầu khắt khe, có thể trở thành rào cản khiến cho công dân của các
quốc gia gặp khó khăn trong việc nêu quan điểm, suy nghĩ của mình với các cơ
quan, quan chức nhà nước để đóng góp vào quá trình xây dựng những quy định,
quyết định hợp lý, hiệu quả, bảo đảm tính dân chủ của xã hội. Nhằm giảm thiểu
sự xuất hiện rào cản đó giữa các cơ quan nhà nước và công dân của quốc gia, cơ
chế vận động chính sách (VĐCS) công được hình thành và phát triển. Lịch sử
VĐCS công đã bắt đầu tư rất lâu và được coi là một phần tất yếu của hoạt động
chính trị trên thế giới tuy nhiên chỉ đến những năm cuối thế kỷ XIX, yếu tố này
mới được người dân biết đến một cách rộng rãi. Cho đến nay, VĐCS công đã trở
nên phổ biến ở nhiều quốc gia và ngày càng chứng minh được sự cần thiết khách
quan của nó trong đời sống chính trị nói chung, đặc biệt là trong quy trình chính
sách của các nước. Có thể hiểu một cách khái quát, VĐCS là hoạt động được tiến
hành bởi một cá nhân hay tổ chức nhằm thuyết phục các cơ quan xây dựng và
quyết định chính sách về sự cần thiết ban hành hay sửa đổi một chính sách nào
đó vì lợi ích của bản thân họ hoặc vì cộng đồng, xã hội.
166 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ và những gợi mở đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội năm 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 62 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. LƯU VĂN AN
2.PGS,TS. TRỊNH THỊ XUYẾN
Hà Nội năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phạm Thị Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ......................... 8
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Anh, Pháp, Mỹ ................................................................................................... 8
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận động chính sách công
ở Việt Nam ......................................................................................................... 24
1.3. Đánh giá những công trình nghiên cứu .............................................................. 28
Chương 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG .............. 33
2.1. Khái niệm và cơ sở vận đông chính sách công .................................................. 33
2.2. Mục đích và sự cần thiết vận động chính sách công .......................................... 42
2.3. Chủ thể, đối tượng và phương thức vận động chính sách công ......................... 47
2.4. Quy trình vận động chính sách công .................................................................. 54
Chương 3. VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ ................... 60
3.1. Pháp luật về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ.......................................... 60
3.2. Chủ thể và đối tượng của vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ ............ 73
3.3. Quy mô, tài chính cho vận động chính sách công ............................................. 86
3.4. Phương thức, phương tiện vận động chính sách công ....................................... 95
3.5. Một số nhận xét về vận động chính sách ở Anh, Pháp, Mỹ ............................. 102
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ VỚI VIỆT NAM.................................... 117
4.1. Quan niệm về vận động chính sách công ở Việt Nam hiện nay ...................... 117
4.2. Biểu hiện vận động chính sách công ở Việt Nam ............................................ 120
4.3. Điều kiện, thách thức và xu hướng phát triển vận động chính sách ở Việt Nam
thời gian tới ....................................................................................................... 133
4.4. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm ứng xử hợp lý với vận động chính
sách công ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 141
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 153
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
EU Liên minh Châu Âu
NGOs Các tổ chức phi chính phủ
PNTR Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
VASEP Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VĐCS Vận động chính sách
VĐHL Vận động hành lang
VNGO Tổ chức phi Chính phủ Việt Nam
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hầu hết nhà nước đều có nhiệm vụ chung là nghiên cứu, đánh giá tình
hình thực tế, so sánh và đối chiếu với các luật, điều khoản Hiến pháp hiện hành,
đưa ra những lập luận chính xác để quyết định hướng giải quyết cho những vấn
đề cấp bách, quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh cũng như sự phát triển
của một quốc gia. Vì tính chất quan trọng của chúng, pháp luật thường đặt ra
những yêu cầu khắt khe, có thể trở thành rào cản khiến cho công dân của các
quốc gia gặp khó khăn trong việc nêu quan điểm, suy nghĩ của mình với các cơ
quan, quan chức nhà nước để đóng góp vào quá trình xây dựng những quy định,
quyết định hợp lý, hiệu quả, bảo đảm tính dân chủ của xã hội. Nhằm giảm thiểu
sự xuất hiện rào cản đó giữa các cơ quan nhà nước và công dân của quốc gia, cơ
chế vận động chính sách (VĐCS) công được hình thành và phát triển. Lịch sử
VĐCS công đã bắt đầu tư rất lâu và được coi là một phần tất yếu của hoạt động
chính trị trên thế giới tuy nhiên chỉ đến những năm cuối thế kỷ XIX, yếu tố này
mới được người dân biết đến một cách rộng rãi. Cho đến nay, VĐCS công đã trở
nên phổ biến ở nhiều quốc gia và ngày càng chứng minh được sự cần thiết khách
quan của nó trong đời sống chính trị nói chung, đặc biệt là trong quy trình chính
sách của các nước. Có thể hiểu một cách khái quát, VĐCS là hoạt động được tiến
hành bởi một cá nhân hay tổ chức nhằm thuyết phục các cơ quan xây dựng và
quyết định chính sách về sự cần thiết ban hành hay sửa đổi một chính sách nào
đó vì lợi ích của bản thân họ hoặc vì cộng đồng, xã hội.
Trong nền chính trị quốc tế đương đại, tồn tại nhiều loại hình thể chế chính
trị, nhiều mô hình tổ chức quyền lực, nhiều mô hình quy trình chính sách khác
nhau và vì vậy, sự tác động của VĐCS vào quy trình chính sách ở các nước khác
nhau cũng không hoàn toàn giống nhau. Nhưng có điểm chung là ở những quốc
gia có sự tham gia của VĐCS vào quy trình chính sách công và có khung pháp lý
cho hoạt động này thì về cơ bản, hoạt động hoạch định chính sách công diễn ra
công khai hơn, các thông tin liên quan đến chính sách công được mở hơn và chất
3
lượng các chính sách công cao hơn bởi lẽ các quyết định chính sách thường đúng
đắn hơn trên cơ sở những thông tin đa chiều và đã được tiếp cận, phân tích trên
nhiều bình diện. Điều này đặc biệt thấy rõ ở các nước tư bản phát triển, và ở tất cả
các mô hình thể chế chính trị. Vậy, liệu có mối liên hệ giữa các mô hình thể chế
chính trị khác nhau ấy với sự tác động của VĐCS công đến đời sống chính sách
công ở các quốc gia này?
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều mô hình thế chế chính trị nhưng tựu
chung lại, về mặt hình thức hay tên gọi, có thể khái quát thành hai loại là thể chế
quân chủ và thể chế cộng hòa. Còn dưới góc độ bản chất của chế độ, và xét riêng
ở những nước tư bản phát triển, có thể tiếp cận thể chế chính trị theo ba mô hình:
mô hình nghị viện, mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp. Tiêu biểu cho các
mô hình ấy là các quốc gia Anh, Mỹ, Pháp. Đây cũng là những quốc gia mà hoạt
động VĐCS công có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình chính sách công, tạo
thành một hoạt động, một phương tiệnquan trọng trong quy trình chính sách ở
các nước này. Đây cũng chính là một trong những lí do tác giả lựa chọn nghiên
cứu VĐCS công ở cả ba quốc gia này.
Vận động chính sách công đã được áp dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia
trên thế giới từ lâu nhưng vẫn còn là một vấn đề mới ở Việt Nam. Trong xu thế
phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, dù muốn hay
không, dù tích cực hay bị động thì chúng ta cũng luôn là một thành viên, một chủ
thể trong đời sống chính trị quốc tế. Do đó, việc phải nghiên cứu để tìm ra những
hướng gợi mở cho Việt Nam, tìm ra những bài học từ VĐCS công trong quy
trình chính sách công ở các nước phát triển là một điều hết sức cần thiết. Hơn thế
nữa, mặc dù cơ bản các chính sách công ở Việt Nam hiện nay đã bám sát và giải
quyết được những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội nhưng phải thừa nhận vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập trong quy trình chính sách công cũng như chất lượng
hoạch định chính sách công ở nước ta. Điều đó càng cho thấy tính tất yếu của
việc nghiên cứu để làm rõ vai trò của VĐCS công ở một số nước tư bản phát
triển để từ đó tìm ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam.
4
Vậy thì, thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ có những điểm tương
đồng khác biệt gì? Tính chất thể chế chính trị và các yếu tố về kinh tế, văn hóa,
xã hội cũng như những quy định pháp lý có tác động như thế nào đến thực tiễn
chính sách của mỗi nước? VĐCS công có thực sự là nhu cầu tất yếu khách quan
của các chủ thể trong đời sống xã hội, và nếu như vậy thì nhà nước nên nhìn nhận
và ứng xử thế nào với VĐCS để vừa phát huy được những tác động tích cực của
VĐCS, vừa kiểm soát và kiềm chế được những ảnh hưởng tiêu cực của nó mà vẫn
khơi dậy được động lực phát triển của các chủ thể trong đời sống xã hội?Với
những đặc thù về thể chế chính trị và quy trình chính sách, Việt Nam có thể học
hỏi được kinh nghiệm của Anh, Pháp, Mỹ trong việc nhận thức và ứng xử với
VĐCS công không và nếu có thì kinh nghiệm ấy là gì? Đó là những vấn đề đặt ra
và sẽ được nghiên cứu trong luận án này.
Vấn đề được đặt ra cấp thiết như thế, nhưng cho đến nay, chưa nhiều công
trình khai thác trực tiếp hướng nghiên cứu này. Chính vì vậy, tác giả xác định đây
còn là một mảnh đất trống cần khai phá trong nghiên cứu khoa học. Và điều đó
cũng thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài “Vận động chính sách công ở Anh, Pháp,
Mỹ và những gợi mở đối với Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án chính trị
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung hệ thống và làm rõ những vấn đề cơ bản về VĐCS công
như khái niệm VĐCS công, mục đích và sự cần thiết VĐCS công, chủ thể, đối
tượng và phương thức VĐCS công, khảo sát thực trạng hoạt động này ở ba nước
Anh, Pháp, Mỹ; từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về hoạt động VĐCS công
ở ba quốc gia nêu trên; đồng thời đưa ra một số gợi mở cho VĐCS công ở Việt
Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
như sau:
5
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về VĐCS công, trong đó hệ thốngvà
phân tích khái niệm chính sách công, xác định mục đích, sự cần thiết của VĐCS,
chủ thể, đối tượng, phương thức, phương tiện vận động, khái quát những bước cơ
bản trong quá trình VĐCS.
- Khảo cứuthực trạng VĐCS công ở Anh, Mỹ, Pháp hiện nay trêncác khía
cạnh pháp luật về VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô hoạt động và tài chính
cho vận động, phương tiện và phương thức vận động của từng nước vàđưa ra
những nhận xét về thực tiễn hoạt động này ở từng quốc gia.
- Từ thực tiễn VĐCS của ba nước Anh, Pháp, Mỹ, luận án làm rõ quan
niệm và những biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam, đưa ra những gợi mở cho chính
phủ Việt Nam trong đó chủ yếu tập trung vào những khuyến nghị để Nhà nước
ứng xử phù hợp và hiệu quả hơn với VĐCS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trực tiếp hoạt động VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ; những biểu
hiện của VĐCS ở Việt Nam và gợi mở đối với Việt Nam từ nghiên cứu trường
hợp Anh, Pháp, Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp là
ba quốc gia đại diện cho ba mô hình thể chế chính trị điển hình. Đồng thời, luận
án cũng nghiên cứu quan niệm và biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam hiện nay để
trên cơ sở những nhận xét rút ra từ VĐCS ở Anh, Mỹ, Pháp tìm ra những gợi mở
cho Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị của nhân
dân lao động, về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước;
6
- Một số lý thuyết chính trị học và chính sách công nhưlý thuyết về VĐCS
công, lý thuyết lựa chọn công cộng, lý thuyết nhóm, lý thuyết hành vi
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận Mác- Lênin, cụ thể
là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để có những nhìn nhận
khách quan, toàn diện về các biểu hiện của VĐCS ở các nước cũng như ở Việt
Nam.
- Phương pháp riêng: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp như logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh,
nghiên cứu tài liệu trong đó phương pháp logic – lịch sử và phân tích – tổng hợp
kết hợp với nghiên cứu các tài liệu để tiếp cận lịch sử hình thành và phát triển của
VĐCS ở các nước, thao tác tư duy về những biểu hiện của thực tiễn VĐCS để
trên cơ sở trình bày những biểu hiện cụ thể sẽ khái quát lại để rút ra những nhận
định mang tính bản chất về VĐCS ở Anh, Pháp Mỹ và ở Việt Nam. Phương pháp
so sánh được sử dụng lồng trong các nội dung trình bày về những biểu hiện của
VĐCS trong thực tiễn chính trị và chính sách ở mỗi quốc gia, luận giải cụ thể
hơn những tương đồng và khác biệt nếu có giữa các quốc gia này để đưa ra
những đánh giá phù hợp, thuyết phục.
5. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu về VĐCS công và VĐCS ở từng quốc gia không còn là vấn đề
mới mẻ, nhưng nội dung được đặt ra trong luận án đảm bảo tính mới ở hai điểm
cơ bản:
Thứ nhất là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu, chi tiết về
VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên các biểu hiện mang tính hệ thống và logic
bao gồm pháp luật VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô và tài chính, hình thức,
phương pháp và phương tiện vận động.
Thứ hai, một nghiên cứu so sánh được sử dụng để nghiên cứu cho cả ba
trường hợp Anh, Pháp, Mỹ như trong đề tài này cũng lần đầu tiên được thực hiện.
Trước đó cũng đã có một số công trình trên thế giới nghiên cứu theo hướng so
7
sánh nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh của VĐCS như những quy định về
VĐCS hoặc hiệu quả của VĐCS. Một công trình đề cập đến những vấn đề khá
căn cốt của VĐCS được khảo cứu qua bộ ba quốc gia Anh, Pháp Mỹ như trong
luận án này là hoàn toàn mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận có liên
quan đến hoạt động VĐCS ở ba nước Anh, Mỹ, Pháp, bước đầu có những đánh
giá một cách khoa học trên quan điểm mác xít về vấn đề này, đồng thời có những
tham chiếu đối với Việt Nam và làm rõ một số vấn đề có liên quan đến hoạt động
VĐCS công ở Việt Nam hiện nay.
Luận án được thực hiện sẽ là một đóng góp về mặt lý luận, làm rõ hơn về
hoạt động VĐCS công ở một số nước tư bản phát triển (Anh, Pháp, Mỹ) và kinh
nghiệm cho Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách của Việt Nam trong thời gian tới để có cái nhìn khách quan và
khoa học hơn đối với vấn đề VĐCS công ở Việt Nam.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và
nghiên cứu chính trị học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án có 4 chương 16 tiết.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG,
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận
Trong nhóm công trình này, có những vấn đề sau đây đã được bàn đến ở
những mức độ khác nhau:
Trước hết, quan niệm về chính sách công và VĐHL, VĐCS công. Nhóm
này phổ biến với không chỉ các công trình nghiên cứu mà còn hệ thống giáo trình
phong phú như: Cuốn “Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2001” của
tác giả Lê Vinh Danh (2001); Giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách
công” (2006) của tác giả Phan Ngọc Tú; Giáo trình “Khoa học chính sách công”
(2008) của Khoa chính trị học, Học viện Báo chí và tuyên truyền; Tập bài giảng
“Chính sách công” (2010) của Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền; Giáo trình “Chính sách công” (2013) của Khoa Chính sách công,
Học viện Chính sách và Phát triển; cuốn sách “Đại cương về chính sách công”
của các tác giả Nguyễn hữu Hải và Lê Văn Hòa (2013); cuốn “Chính sách công -
Những vấn đề cơ bản” của tác giả Nguyễn Hữu Hải (2016)Cho đến nay, khoa
học chính sách công đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ với những
quan niệm phong phú về chính sách công. Dù xuất phát từ những cách tiếp cận
khác nhau thì chính sách công nhìn chung vẫn được quan niệm là những quyết
định hành động của các chủ thể quyền lực nhà nước, thể hiện quan điểm, mục
tiêu, ưu tiên của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể trong những
điều kiện cụ thể. Vì vậy, dù chưa phải đã hoàn toàn thống nhất nhưng tựu chung
lại, các quan niệm đều chỉ ranhững đặc điểm sau đây của chính sách công: 1)
CSC là các chính sách do nhà nước ban hành để thực hiện chức năng của nhà
nước là quản lý, điều hành kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đề ra; 2) CSC là
kết quả quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước; 3) CSC là những quyết
9
định hành động, trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách
nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó và sau đó là những hành vi
thực hiện các dự định đó; 4) CSC tập trung giải quyết vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội theo những mục tiêu xác định; 5) CSC bao gồm những việc nhà
nước định làm hoặc không định làm, nghĩa là không phải mọi mục tiêu của chính
sách công đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là yêu cầu chủ thể không được
hành động; 6) CSC tác động đến các đối tượng của chính sách - là những người
chịu sự tác động hay điều tiết của chính sách, bao gồm: đối tượng trực tiếp và đối
tượng gián tiếp; 7) CSC được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của
cộng đồng hoặc của quốc gia, gắn với việc phân phối và sử dụng các nguồn lực
công của nhà nước [27, tr. 6, 7, 8].
Về VĐHL và VĐCS công, dù vẫn còn là khái niệm khá mới mẻ nhưng
cũng có nhiều công trình đưa ra quan niệm về VĐHL, VĐCS công như “Những
cơ sở của nền chính trị Mỹ” của Gary Wassrman (bản dịch của thạc sỹ Đoàn Văn
Thắng), Longman - New York, 1997 đã đưa ra khái niệm VĐHL“Vận động hành
lang là khi các cá nhân hay nhóm lợi ích gây sức ép lên chính phủ để chính phủ
hành động theo ý muốn của họ” [13, tr. 220]. Một cách phát biểu khác về VĐHL
cũng được đưa ra “VĐHL là hoạt động bao gồm những tiếp xúc cả trực tiếp hay
gián tiếp của các nhóm có tổ chức (hoặc đại diện của họ) đến các quan chức hành
chính, những nhà hoạch định chính sách, những đại biểu dân cử nhằm gây ảnh
hưởng lên quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách ấy” [94, tr.8] như
trong “Lobbying in Europe” (vận động chính sách ở châu Âu). Riêng trong
“Lobbying in the Dark? The Effects of Policy-Making Transparency on Interest
Group Lobbying Strategies in France and Sweden”(Vận động chính sách công
trong “bóng tối”? Những ảnh hưởng của môi trường hoạch định chính sách minh
bạch lên chiến lược vận động chính sách của các nhóm lợi ích ở Pháp và Thụy
Điển), tác giả xuất phát từ kết luận của một nghiên cứu trước đó rằng VĐHL có
thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong số những hình thức quan
trọng nhất là “VĐHL thông tin” (informational lobbying) được hiểu là việc
“thuyết phục các nhà hoạch định chính sách để có những hành động cụ thể thông
10
qua những điều khoản có tính chiến lược về thông tin nhằm gây ảnh hưởng đến
các cuộc tranh luận hay thông qua chính sách” [94, tr.26].
Theo bài viết “Contracts: Illegality: Lobbying” đăng trên California Law
Review thì tạiKhoản 35 điều IV, Hiến pháp bang California lại đưa ra quan điểm
VĐHL là việc tìm cách “gây ảnh hưởng đến việc bỏ phiếu cho một thành viên
của nghị viện bằng cách hối hộ, hứa tặng quà, đe dọa hoặc những cách thức
không trung thực khác” [56, tr.344]. Điều 89 của Luật Hình sự bang này lại coi
VĐCS là một loại tội danh giống như bất kỳ một tội dan