Nghiên cứu vềbiển đảo gần đây đã nhận được sựquan tâm của nhiều ngành
nghiên cứu nhưkhoa học tựnhiên, khoa học xã hội Việt Nam có bờbiển dài hơn
3260 km, từ vùng ven biển đã mở ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế biển.
Trong môi trường biển đảo cộng đồng cưdân sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa có giá
trịcần được bảo tồn và phát huy.
Vấn đề bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó có lễ hội
truyền thống của mỗi vùng miền, đã và đang đặt ra nhưmột nhiệm vụquan trọng để
góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từtrước đến nay, các nhà nghiên
cứu đều thống nhất nhận định rằng văn hóa giữvịtrí, vai trò nền tảng cho sựphát
triển của dân tộc. Những dấu ấn sâu đậm của lịch sử, của đời sống kinh tế- xã hội,
tâm lý cộng đồng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng. đều có thểtìm thấy trong văn
hóa, đặc biệt là trong các lễhội truyền thống. Bước vào thếkỷXXI, trước xu thếtoàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định văn hóa truyền thống là một nguồn lực
tạo nên động lực đểxây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi, văn hóa truyền thống (trong đó có lễhội truyền thống) không phải lúc nào
cũng được coi trọng đúng mức. Không ít nơi phục cổmột cách tùy tiện, thiếu định
hướng, làm biến dạng các di sản văn hóa quý giá đó, thậm chí quay lưng lại với các
giá trị văn hóa dân tộc, xem đó là cái bảo thủ, lỗi thời. Vì thế rất cần một thái độ
khách quan, khoa học đối với di sản văn hóa, trong đó có lễhội.
Ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, thếkỷXXI là "Thếkỷcủa đại dương".
Nghịquyết Hội nghịlần thứtưBan Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2-2007) về
"Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" cũng ghi nhận ý kiến trên và nêu lên mục
tiêu "vươn ra biển lớn". Và nhưthế, "con mắt cận duyên" phải được thay bằng "tầm
nhìn đại dương". Để có "tầm nhìn đại dương" ấy không thể không nghiên cứu địa
hình, khí hậu, môi trường sinh thái, phong tục, tập quán. của cưdân biển, là tác nhân
sinh thành và phát triển những vùng văn hóa khác nhau.
260 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 3134 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2015
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Đức Ngôn
2. TS. Nguyễn Thị Việt Hương
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Trần Đức Ngôn và TS. Nguyễn Thị Việt Hương. Các kết quả nghiên cứu
và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn
nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được trích dẫn
và ghi xuất xứ theo đúng quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Phương Thảo
1
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU 3
MỞ ĐẦU 4
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI
QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
8
1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài 8
1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền
thống
17
1.3. Khái quát về lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh 33
Tiểu kết 48
Chương 2: YẾU TỐ NỘI ĐỒNG TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO
QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
49
2.1. Cộng đồng cư dân và cơ cấu tổ chức các làng nông nghiệp 49
2.2. Sự thể hiện yếu tố nội đồng trong lễ hội truyền thống 56
Tiểu kết 78
Chương 3: YẾU TỐ BIỂN TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO
QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
79
3.1. Cộng đồng ngư dân và cơ cấu tổ chức các làng biển đảo 79
3.2. Sự thể hiện yếu tố biển trong lễ hội truyền thống 83
Tiểu kết 115
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH 117
4.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng và
nhạt yếu tố biển
117
4.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm tính lịch sử 121
4.3. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt
với các vùng biển đảo khác
142
4.4. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự dung hợp văn hóa các
vùng miền
156
Tiểu kết 160
KẾT LUẬN 161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167
PHỤ LỤC 175
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
A: Ảnh
â.l: âm lịch
GS: giáo sư
h: huyện
x: xã
tx: thị xã
TP: thành phố
Nxb: Nhà xuất bản
PL: phụ lục
QN: Quảng Ninh
TCN: trước Công nguyên
SCN: sau Công nguyên
TS: tiến sĩ
tr: trang
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Stt Nội dung bảng thống kê Trang
1 Bảng 1.1: Thống kê số lượng lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Quảng Ninh
37
2 Bảng 1.2: Thống kê không gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển
đảo Quảng Ninh
37
3 Bảng 1.3: Thống kê thời gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Quảng Ninh
39
4 Bảng 1.4: Phân loại lễ hội truyền thống của cư dân vùng biển đảo
Quảng Ninh
42
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về biển đảo gần đây đã nhận được sự quan tâm của nhiều ngành
nghiên cứu như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội Việt Nam có bờ biển dài hơn
3260 km, từ vùng ven biển đã mở ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế biển.
Trong môi trường biển đảo cộng đồng cư dân sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa có giá
trị cần được bảo tồn và phát huy.
Vấn đề bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó có lễ hội
truyền thống của mỗi vùng miền, đã và đang đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng để
góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từ trước đến nay, các nhà nghiên
cứu đều thống nhất nhận định rằng văn hóa giữ vị trí, vai trò nền tảng cho sự phát
triển của dân tộc. Những dấu ấn sâu đậm của lịch sử, của đời sống kinh tế - xã hội,
tâm lý cộng đồng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... đều có thể tìm thấy trong văn
hóa, đặc biệt là trong các lễ hội truyền thống. Bước vào thế kỷ XXI, trước xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định văn hóa truyền thống là một nguồn lực
tạo nên động lực để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi, văn hóa truyền thống (trong đó có lễ hội truyền thống) không phải lúc nào
cũng được coi trọng đúng mức. Không ít nơi phục cổ một cách tùy tiện, thiếu định
hướng, làm biến dạng các di sản văn hóa quý giá đó, thậm chí quay lưng lại với các
giá trị văn hóa dân tộc, xem đó là cái bảo thủ, lỗi thời. Vì thế rất cần một thái độ
khách quan, khoa học đối với di sản văn hóa, trong đó có lễ hội.
Ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, thế kỷ XXI là "Thế kỷ của đại dương".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2-2007) về
"Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" cũng ghi nhận ý kiến trên và nêu lên mục
tiêu "vươn ra biển lớn". Và như thế, "con mắt cận duyên" phải được thay bằng "tầm
nhìn đại dương". Để có "tầm nhìn đại dương" ấy không thể không nghiên cứu địa
hình, khí hậu, môi trường sinh thái, phong tục, tập quán... của cư dân biển, là tác nhân
sinh thành và phát triển những vùng văn hóa khác nhau.
5
Quảng Ninh (QN) là một vùng đất cổ. Các di chỉ khảo cổ học, các thư tịch cổ
sưu tầm được đã minh chứng rõ điều này. QN tập hợp đầy đủ đặc điểm của hệ sinh
thái nước ta, có đồi núi, đồng bằng, đặc biệt là có biển với sự đa dạng sinh học rất
đáng chú ý. QN có hơn 20 tộc người, mỗi tộc người lại có những nét văn hóa riêng,
tiêu biểu, tất cả tạo nên sự phong phú, đa dạng của một vùng văn hóa độc đáo.
Địa hình QN chủ yếu là đồi núi (chiếm 4/5 diện tích). Tuy nhiên, nói đến QN,
nhiều người lại nghĩ ngay đến biển, bởi vì nơi đây có một vùng biển đảo rộng lớn với
250 km bờ biển và hơn 2000 đảo lớn nhỏ trên vùng vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.
Vịnh Hạ Long đã hai lần được Unesco công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, năm
2007 được vào danh sách bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới. QN không chỉ gắn
tên tuổi của mình với những bãi biển đẹp, những thắng cảnh hùng vĩ, nên thơ, mà QN
còn nổi tiếng với di tích lịch sử - văn hóa, các kiến trúc độc đáo, phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, vốn văn hóa dân gian và hệ thống lễ hội truyền thống phong phú, đặc sắc,
tiêu biểu cho một vùng văn hóa biển đảo.
QN là một tỉnh ven biển nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà
Nội - Hải Phòng - QN), đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch của Việt Nam.
Điều đó cho thấy vị thế của QN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các
tỉnh phía Bắc nói riêng và của cả nước nói chung là rất lớn.
Chính vì vậy, từ góc nhìn địa - văn hóa, tác giả chọn đề tài Văn hóa vùng
biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống) để nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ hơn những nét đặc trưng, tính chất đa
dạng, phong phú của lễ hội truyền thống QN trong lịch sử và hiện tại. Kết quả
nghiên cứu của đề tài cũng sẽ là một căn cứ khoa học góp phần định hướng quy
hoạch phát triển văn hóa, tạo môi trường xã hội ổn định, bền vững, trong đó có
việc khai thác lễ hội truyền thống như là một nguồn lực văn hoá để phát triển kinh
tế - xã hội của QN nói riêng, của cả nước nói chung trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức sâu về các yếu tố cấu thành và đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo QN.
6
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vùng văn hóa biển đảo QN.
- Tiến hành khảo sát, điền dã vùng biển đảo QN, đặc biệt tham gia vào các lễ
hội truyền thống.
- Mô tả các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN ở cả ba nhóm: nội đồng, ven
biển và hải đảo để làm rõ các yếu tố nội đồng và yếu tố biển.
- Làm rõ những đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN
thông qua việc so sánh với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các lễ hội truyền thống ở vùng
biển đảo trên địa bàn tỉnh QN. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đề cập
đến một số lễ hội tiêu biểu liên quan đến biển của các tỉnh, thành phố vùng duyên hải
Bắc Bộ như Hải Phòng, Thái Bình và một số địa phương ở Trung Bộ để tìm ra những
nét tương đồng và khác biệt với lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.
- Về thời gian: Luận án khảo sát các lễ hội truyền thống vùng biển đảo hiện nay ở
QN. Tư liệu khảo sát được thực hiện trong 7 năm (từ năm 2007 đến năm 2013). Dựa vào
kết quả nghiên cứu, đối chiếu với các lễ hội truyền thống ven biển trước năm 1954 thông
qua tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước để thấy các yếu tố truyền thống còn được bảo
lưu trong các lễ hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên ngành: Tiếp cận vấn đề trên các phương diện địa lý, lịch sử,
kinh tế, văn hoá, xã hội... của tỉnh QN.
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp điền
dã để quan sát, tham dự vào các sinh hoạt văn hoá của cư dân địa phương với mục đích
khảo tả một cách chân thực các hiện tượng trong các lễ hội truyền thống nhằm thu thập
nguồn tư liệu xác thực, cập nhật nhất. Bên cạnh đó, việc quan sát, phỏng vấn, trao đổi ý
kiến để thu thập thông tin về những vấn đề liên quan đến lễ hội truyền thống vùng biển
7
đảo cũng được thực hiện.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng để nhận thức sâu đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa vùng
biển đảo QN với văn hóa vùng biển đảo khác.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Phân loại lễ hội truyền thống ven biển QN.
- Mô tả những yếu tố văn hóa nội đồng và văn hóa biển trong lễ hội truyền
thống vùng biển đảo QN.
- Ngoài việc tiếp cận với các tư liệu đã công bố, đề tài sẽ công bố một số tư
liệu mới.
- Nêu một số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa vùng biển đảo QN và đối chiếu
với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên
cứu về văn hoá vùng hoặc địa chí văn hóa.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về lễ hội truyền
thống vùng biển đảo Quảng Ninh
Chương 2: Yếu tố nội đồng trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua
các lễ hội truyền thống
Chương 3: Yếu tố biển trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua các
lễ hội truyền thống
Chương 4: Đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh
8
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT
VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Bắc Bộ
Có thể khẳng định rằng nghiên cứu lễ hội truyền thống vùng biển đảo Bắc Bộ
chưa được chú trọng như Trung Bộ và Nam Bộ. Vì vậy, tài liệu viết về vấn đề này
cũng không nhiều.
Năm 1985, tác giả Diệp Trung Bình có bài Vài nét về đời sống của ngư dân vùng
biển Đông Bắc Việt Nam [4]. Nội dung của bài gồm hai mục: sinh hoạt kinh tế và đời
sống văn hóa, xã hội. Bài viết đã chỉ ra các mối quan hệ về gia đình, dòng họ và ảnh
hưởng trực tiếp của các mối quan hệ này đến đời sống ngư dân (người Đản) ở Đông
Bắc Việt Nam trong đó có đề cập tới một số lễ hội truyền thống ven biển. Tác giả
khẳng định: “Trong đời sống đánh cá, ngư dân Đản đã sản sinh ra một nền văn hóa
biển khá đặc sắc và phong phú” [4, tr.20].
Năm 1996, tác giả Nguyễn Thanh có bài, Lễ hội trình nghề reo ống làng
Quang Lang [60]. Bài viết đã giới thiệu khá chi tiết nguồn gốc, thời gian, các nghi
thức tiến hành lễ hội của làng Quang Lang nay thuộc x. Thụy Hải, h. Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình, một làng ven biển mà dân làng sống chủ yếu nhờ vào nghề đánh cá và làm
muối. Tác giả đã giới thiệu những nét độc đáo của lễ hội trình nghề reo ống (chủ yếu là
phục dựng lại). Tuy nhiên, bài nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu và đưa ra
một số nhận định về lễ hội này.
Trải qua một thời gian sưu tầm, nghiên cứu lễ hội Thái Bình, đến năm 2000 tác
giả Nguyễn Thanh đã xuất bản cuốn Lễ hội truyền thống Thái Bình [61]. Tác giả khẳng
định: Thái Bình cùng chung đặc điểm với lễ hội ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Lễ
hội truyền thống ở Thái Bình được phân bố với mật độ cao vào những tháng nông nhàn
theo chu trình sản xuất của hai vụ lúa chiêm, lúa mùa với tâm thức “tháng tám giỗ cha
tháng ba giỗ mẹ” nhưng những hội làng lớn duy trì nhiều lễ thức cổ xưa lại tập trung
nhiều vào tháng tư và tháng chín. Tác giả cũng nghiên cứu về đặc điểm lễ hội ở Thái
9
Bình: Ngoài tính phổ biến “sáng rối tối chèo” của nhiều hội, mỗi hội lại có những tục
thi riêng gắn với huyền thoại về sự tích, hành trạng của vị thần được thờ và những điệu
múa dân gian gắn với nghi thức tín ngưỡng” [61, tr.16]. Cùng với tục rước nước của hội
nhiều làng ven sông, ven biển, tục đua trải của các hội làng ở Thái Bình làm đậm thêm
sắc thái lễ hội truyền thống của một vùng sông nước.
Năm 2010, công trình của Đỗ Lan Phương Văn hóa vùng cửa sông Hồng như
một dạng thức của văn hóa biển Việt Nam (qua nghiên cứu hai xã ở Nam Định và
Thái Bình) [45]. Mặc dù chỉ khảo sát trường hợp cư dân hai xã Giao An ở Nam Định
và Đông Minh ở Thái Bình, nhưng tác giả đã đi sâu nghiên cứu đầy đủ về văn hóa
biển: Lịch sử hình thành; các nghề khai thác tài nguyên; các sinh hoạt văn hóa - tín
ngưỡng; ... Tác giả khẳng định: “văn hóa cửa sông Hồng không chỉ là một dạng thức
của văn hóa biển Việt Nam mà còn là biểu hiện của mối quan hệ giữa văn hóa với
phát triển, trong đó có mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường sinh thái” [45, tr.21 -
22]. Rõ ràng, bài viết không chỉ có giá trị về mặt thực tiễn khảo cứu văn hóa biển ở
hai địa điểm cụ thể mà còn có giá trị trong việc hệ thống hóa các khái niệm công cụ để
chúng tôi có thể áp dụng vào quá trình nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển QN.
Năm 2011, Lê Thanh Tùng có bài Lễ hội cổ truyền của cư dân ven biển Hải
Phòng - bước đầu nhận diện [87]. Qua việc nghiên cứu các lễ hội ven biển ở Hải
Phòng, tác giả đã thống kê và phân loại lễ hội ven biển.
Năm 2012 Lê Thanh Tùng hoàn thành Luận án tiến sĩ Lễ hội cổ truyền cư dân
ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay [88]. Trong luận án, tác giả
đã đưa ra được những nhận định có giá trị qua quá trình nghiên cứu về lễ hội ven biển
của Hải Phòng như:
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có liên quan đến tục tế trâu và thần Độc Cước ở
vùng ven sông ven biển Thanh Hóa, Để thích ứng và phù hợp với vùng
đất mới, ngư dân đã hòa nhập tín ngưỡng gốc với tín ngưỡng vùng đất mới,
địa phương hóa tín ngưỡng, để tạo nên tục thờ dấu chân thần vừa quen
thuộc, vừa mới lạ: thần Độc Cước - dấu chân, vết chân chim sẻ - thần
Điểm Tước Đại Vương. Đồng thời tục tế trâu và tín ngưỡng thờ thủy thần,
mặt trăng của dân chài ven biển Quảng Xương, Thanh Hóa đã gặp gỡ nhau
10
trong một không gian thiêng, nơi cư trú mới để rồi hòa cùng, tạo ra hội
chọi trâu Đồ Sơn, Hải Phòng độc đáo nhưng rất quen thuộc [88, tr.89].
Nhưng nhìn chung luận án vẫn chưa tổng kết được những đặc trưng tiêu biểu nhất
của văn hóa biển Hải Phòng và sự khác biệt với các vùng ven biển khác trong cả nước.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Trung Bộ
Về mặt địa lý, Trung Bộ là vùng tiếp giáp với biển nhiều nhất trên lãnh thổ Việt Nam.
Chính vì vậy, các nghiên cứu về văn hóa biển đảo nói chung và lễ hội ven biển tập trung chủ
yếu ở vùng này.
Mục sản vật của tỉnh Bình Thuận trong Đại Nam nhất thống chí, tập 3 [47] có
ghi chép: “Cá voi: tương truyền ngày mùng 2 tháng 2 năm Nhâm Ngọ, người thôn
Sơn Hải, h. Yên Phước thấy một đoạn xương cá voi, một cái thùng gỗ thông từ ngoài
bến trôi vào, người trong thôn cùng nhau khiêng cái xương ấy bỏ vào thùng, muốn tìm
đất để chôn thì khiêng không thấy động đậy, rồi bỗng linh cá voi phụ vào người mà
nói rằng: Ta ở đây thôi, không nên chôn chỗ khác”. Người trong thôn cho là thần, bèn
chôn ở đấy và lập đền thờ. Đền ở phía nam đầm thôn ấy, có tượng đất, sau tượng có
quan tài sơn son, có hiệu là Nam hải cự tộc Ngọc lân chi thần. Theo chúng tôi, những
ghi chép này chứng tỏ các vị thần biển có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với
ngư dân ven biển. Phải chăng trong tâm thức của họ, thần biển mà cụ thể ở đây là cá
voi - sống nơi biển cả - đã có một sức mạnh lớn, là vật linh thiêng ?
Giai đoạn này, văn hóa biển được thể hiện qua sự ghi chép về các ngôi miếu,
đền thờ các vị thần biển. Trong Đại Nam nhất thống chí, tập 1 có ghi:
Miếu Nam Hải Long Vương: ở phía tả cửa biển Thuận An, xã Thái
Dương, huyện Hương Trà, thờ thần Nam Hải Long Vương. Trước kia
miếu ở x.Dương Xuân, h.Hương Thủy đầu niên hiệu Gia Long hằng
năm tế vào 4 tháng trọng, năm thứ 12 đổi dựng chỗ ở hiện nay, gọi là
đền thần cửa biển Thuận An; năm Minh Mệnh thứ 3 đổi tên như hiện
nay [48, tr.72-73].
Rõ ràng, các vị thần biển luôn có một sức mạnh lớn giúp ngư dân vượt qua
những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, là chỗ tựa vững chắc cho họ về mặt tinh
thần, giúp họ có niềm tin vững chắc khi vượt ra biển để kiếm kế sinh nhai.
11
Ninh Viết Giao (1978) trong công trình, Sinh hoạt của ngư dân miền biển Nghệ
Tĩnh trước Cách mạng (qua tục ngữ, dân ca) [13], thông qua việc phân tích những câu
tục ngữ, ca dao vùng biển, tác giả đã cho người đọc thấy rõ văn hóa biển mà cụ thể là
những sinh hoạt văn hóa của ngư dân miền biển Nghệ Tĩnh. Đặc biệt quý giá hơn cả
trong kho tàng ca dao, tục ngữ ấy là những tri thức thực tiễn trong cuộc sống được đúc rút
ra từ thế hệ này qua thế hệ khác mà Ninh Viết Giao đã ghi chép được.
Năm 1982, tác giả Tôn Thất Bình có bài nghiên cứu Một số tín ngưỡng, tục lệ
của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên đến Bình Thuận [5]. Qua 5 trang viết, tác giả
đã đề cập tới một số tục lệ, nghi lễ của cư dân vùng biển miền Trung: Tục thờ thần
Hoàng làng, tục thờ cá ông Voi và các loài hải tộc khác, cùng các hội hè, nghi lễ liên
quan đến sinh hoạt nghề biển. Ngoài ra, công trình còn đề cập tới tín ngưỡng vật linh
miền biển như Rùa biển được gọi là Bà, hiệu là “Đệ bát Thánh phi nương tôn thần”;
hay ông Sứa, ông Nược, ông Hèo... Đây là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng đối
với những nhà nghiên cứu quan tâm tới văn hóa tâm linh của ngư dân ven biển.
Năm 1986 Võ Quang Trọng có bài viết Hội đua thuyền ở một làng biển [83].
Tác giả đã mô tả cụ thể về hội đua thuyền mang tính chất ngư nghiệp của làng biển
Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Cũng nghiên cứu về lễ hội miền Trung, còn phải kể tới
Huỳnh Tới (1996) với bài Lễ hội Dinh Cô [82], giới thiệu về một lễ hội độc đáo của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Năm 1997 Cao Đức Hải có công trình về Tín ngưỡng thờ Thuỷ thần của ngư dân
vùng cực Đông Trung Bộ [16]. Mặc dù tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về tín
ngưỡng thờ Thủy thần của ngư dân vùng Đông Trung Bộ, nhưng đây cũng là một tài
liệu tham khảo đáng tin cậy, giúp chúng tôi nghiên cứu về việc thờ cúng các vị thần
trong lễ hội truyền thống ven biển QN. Bên cạnh đó, năm 2000, tác giả Trương Minh
Hằng có bài viết về Văn hóa biển ở làng chài Nhượng Bạn [21] cũng đề cập tới các lễ
hội, tín ngưỡng, phong tục, tập quán có liên quan tới biển của một làng chài cụ thể.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử văn hóa và nghệ thuật của Nguyễn Đăng
Vũ về Văn hóa dân gia