Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc
tế mà thời gian qua đã giúp cho các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP lập nên kỷ
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và
nông nghiệp công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống xã hội
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương
trong vùng và cả nước . Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua
cũng bộc lộ khá nhiều yếu kém: tăng trưởng xuất khẩu không ổn định, còn chứa đựng
nhiều yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài; sản
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp . Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, sự phát triển kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng giữa các ngành nghề, lĩnh vực và
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng,
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào
khác có được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để ĐBSCL xác
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát2
triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường
hội nhập và cạnh tranh quốc tế
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Xác định sản
phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.
139 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc
tế mà thời gian qua đã giúp cho các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP lập nên kỷ
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và
nông nghiệp công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống xã hội
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương
trong vùng và cả nước. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua
cũng bộc lộ khá nhiều yếu kém: tăng trưởng xuất khẩu không ổn định, còn chứa đựng
nhiều yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài; sản
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, sự phát triển kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng giữa các ngành nghề, lĩnh vực và
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng,
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào
khác có được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để ĐBSCL xác
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát
2
triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường
hội nhập và cạnh tranh quốc tế
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Xác định sản
phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây:
1) Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho
toàn vùng.
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020.
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực
ĐBSCL trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các
nhiệm vụ trọng tâm như sau:
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn và
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020.
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
3
4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chủ lực
mang đặc trưng cho lợi thế, tiềm năng và gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế của
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng
bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, khi nghiên cứu nhu cầu thị trường thì phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước.
4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Phát triển cụm công nghiệp gắn với phát triển vùng lãnh thổ và địa phương, hoặc
phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều
công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên,
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu,
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra.
4.1. Tài liệu nước ngoài
1) Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter (1990). Porter cho rằng,
các lý thuyết phát triển truyền thống như lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so
sánh của David Ricardo xem nền kinh tế như là sự “định hướng bởi yếu tố nguồn lực”.
Tức, lợi thế của một quốc gia trong thương mại quốc tế được xác định bởi các yếu tố
nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì
chúng tạo ra chi phí thấp. Tuy nhiên, theo Porter thì "sự thịnh vượng của quốc gia được
tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao
hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị
4
độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter
và các lý thuyết cạnh tranh khác vào việc xác định lợi thế cạnh tranh để phát triển cụm
chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21].
2) Lý thuyết cụm phát triển của M. Porter (1990). Ban đầu, Porter cung cấp các
nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn
với các chiến lược phát triển địa phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về
nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên
kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận
dụng thành công lý thuyết này vào lựa chọn và phát triển ngành/sản phẩm chủ lực tập
trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48].
3) Sự phát triển của khái niệm cụm Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra,
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48].
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát
triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị
trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm.
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm
là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45].
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các
5
giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc
gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa,
dịch vụ chủ lực của địa phương [47].
Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này
được tác giả tham khảo như: “Regional innovation systems (RIS) in China của Jon
Sigurdson” đăng trên Working Paper No 195, July 2004 [49]; “Sustaining the Green
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in
Japanese alcoholic beverages and fermented foods, Tokyo University of Agriculture
Sedagayaku, Tokyo, Japan [54]; “Identifying and assessing the factors that influence
cluster’s competitiveness in Oregon, and some initial suggestions”, Luận án Tiến sĩ của
Sam Gi Hong (2007) [52]....Nhìn chung các tài liệu này đều nhấn mạnh đến vai trò của
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững.
4.2 Tài liệu trong nước
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
tỉnh vùng Bắc Trung bộ” của Nguyễn Hồng Lĩnh (2007). Luận án đã vận dụng các lý
thuyết liên quan, đặc biệt là mô hình kim cương của M. Porter để phân tích tìm ra các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo
sát thực tế; rút kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông
Nam Á và dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, Luận án đã xác định các ngành công
nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9].
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo
Chương trình, sẽ hình thành và phát triển hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam bằng
công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các
6
doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường
quốc tế [24].
3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 –
2005 của Bộ Khoa họcCông nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với
chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Nội dung chủ yếu của Chương trình
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh; xây dựng các mô hình thâm canh và
sản xuất công nghiệp trong nuôi trồng nông, lâm, thủy hải sản theo hướng bền vững và
bảo vệ môi trường sinh thái...[1]
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực
Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của
Thành phố là các tiêu chí gồm sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được
tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng
cao, ổn định; hoặc thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn vào
tổng GDP công nghiệp. Qui trình xét chọn có 4 bước: đề xuất doanh nghiệp tham gia
Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận
sản phẩm chủ lực...[17].
5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2002 – 2005”. Theo Chương trình này, Hệ thống tiêu chí lựa chọn sản
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham
gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt
động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín,
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].
7
Ngoài ra, Luận án còn tham khảo nhiều tài liệu chương trình phát triển sản phẩm
chủ lực tương tự của các địa phương khác cũng như hội thảo, hội nghị,... liên quan đến
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lực
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy
(Tp Cần Thơ) giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020” và các bài viết khác của
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết vấn
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững.
5. Tính mới của Luận án
So với các công trình nghiên cứu cũng như chương trình phát triển sản phẩm chủ
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau:
1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương
pháp xác định sản phẩm chủ lực để vận dụng vào giải quyết các vấn đề có tính lý luận
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2020.
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn.
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho
việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng.
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện
việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển
vọng trong vùng để từ đó lập ra bảng Danh mục những sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
năm 2020.
8
5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực của
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020.
6. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như:
+ Tiếp cận hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực của
Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính
đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại trong cả nước. Nghĩa là xem hàng hóa, dịch vụ đó của Đồng bằng sông Cửu
Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước.
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó.
+ Các phương pháp hỗ trợ khác: Sử dụng các phương pháp mô hình hóa, sơ đồ
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp hồi qui tuyến tính, đặc biệt trong phân tích
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng.
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây
dựng cơ sở lý thuyết một cách khoa học và khách quan về sản phẩm chủ lực. Công cụ
được sử dụng phổ biến trong gi