Cá bống tuợng là loài cá nước ngọt có kích th ước l ớn, gi á tr ị kinh
t ế cao v à đây l à đối t ượng nuôi đầy ti ề mnăn g được quan t â m và ph át
triểnmạnhmẽ. Đề tài“ẢNHHƯỞNGCỦA ĐỘMẶN KHÁC NHAU
LÊNTỶLỆSỐNG VÀTỐC ĐỘTĂNG TRƯỞNGCỦA CÁBỐNG
TƯỢNG (Oxyele otri s mamoratu s)” được th ực hiện nhằ m tìm hiểuvềs ự
t ăng tr ưởng, t ỷl ệ s ốngcủa đối t ượn g này ở nhữn g độmặn k hác nhau,
t ừ đó có những ứngdụng phùhợp cho việcmởr ộn g vùng n uôi và đa
dạng hóa mô hìn hnuôi đối t ượng nuôi.
Thí nghiệ m được th ực hiệ ngồm 5 ng hiệ m th ức 0‰, 5‰, 10‰,
15‰, 20‰, kích cỡ cá tr u ng bìn h khoả ng 12,85±2.43 g. Thí nghiệ m
được ti ến hành t ro ng 3 th án g, tăng tr ọngvề khố i l ượngv à chiề u dàic ủa
cás ẽ được thu mẫ u s aumỗi tháng . Kết quảt ỷl ệs ốngcủa cá s au 3
thá n g nuôi ca o nhất ở độmặn 5‰ (95,3 3%), ti ế p đến ở nghiệ m th ức
10‰ ( 98,33%), kế đến là ở nghiệ m th ức 0‰ (6 8,67 %), ở nghiệ m thức
15‰, 20‰, cá chết hoàn to à nl ầnl ượt ở ng ày thứ 48 và 4 4 trong 3
thá n g nuôi.Tăng trọ ngcủa cá ở cá c ng hiệ m thứ c 0‰, 5‰, 10‰
khác
biệt có ý nghĩ a ( p<0,05) th ống k ê vàl ầ nl ượt là 5,95± 2, 14 g, 6,19±0,5 6
g và 7, 71±1,03 g. Ở hai nghiệ m th ức 15‰ và 20‰ c á ch ết hoàn to àn
s au 48 và 44 ngày n uôi.Hệs ố chuyể n hoá th ức ă n (FCR) ở các nghiệ m
thức khác biệt không có ý nghĩ a (p<0,0 5) th ố ng kê, ở ng hiệ m th ức 0‰
là 5, 65±0,20 và ở20‰ là 6,4 4±0,06
41 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2368 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của độ mặn khác nhau lên tỷ lệ sống vàt ốc độ tăng trởng của cá bố ngtợng (ox yel eo t ri s ma moratus), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THUỶ SẢN
----------oOo----------
ĐINH LĨNH NAM
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN KHÁC NHAU
LÊN TỶ LỆ SỐNG VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG
CỦA CÁ BỐNG TƯỢNG
( Oxyeleotris mamoratus )
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG
2009
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
1
LỜI CẢM ƠN
Quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp đã giúp tôi có được
những kinh nghiệm và kĩ năng bổ ích, thiết thực cho công việc sau này.
Để đạt được những kết quả trên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Cô Đỗ Thị Thanh Hương, Bộ môn Dinh dưỡng và Chế biến thủy
sản – Khoa Thủy sản, khoảng thời gian làm việc dưới sự dẫn dắt và
giúp đỡ của cô giúp tôi nhận thấy những khoảng trống kiến thức cần
phải củng cố, đồng thời cô còn giúp tôi những chỉ dẫn quí báu để tôi có
thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
Tôi xin cảm ơn Cô Bùi Thị Bích Hằng cố vấn học tập và các thầy
cô đã quan tâm truyền đạt kiến thức trong 4 năm đại học.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến chị Huỳnh Hiếu Lộc, chị Nguyễn
Hương Thùy, chị Nguyễn Thị Kim Hà đã giúp đỡ và chỉ dẫn tôi rất
nhiệt tình trong thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp của mình.
Tập thể lớp BHTS 31, các anh chị em trong trại thực nghiệm đã
quan tâm giúp đỡ tôi trong những lúc gặp khó khăn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, các anh chị và bạn bè đã động
viên, an ủi, hỗ trợ tôi cả tinh thần lẫn vật chất trong suốt thời gian vừa
qua.
Xin chân thành biết ơn!
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
2
TÓM TẮT
Cá bống tuợng là loài cá nước ngọt có kích thước lớn, giá trị kinh
tế cao và đây là đối tượng nuôi đầy tiềm năng được quan tâm và phát
triển mạnh mẽ. Đề tài “ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN KHÁC NHAU
LÊN TỶ LỆ SỐNG VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ BỐNG
TƯỢNG (Oxyeleotris mamoratus)” được thực hiện nhằm tìm hiểu về sự
tăng trưởng, tỷ lệ sống của đối tượng này ở những độ mặn khác nhau,
từ đó có những ứng dụng phù hợp cho việc mở rộng vùng nuôi và đa
dạng hóa mô hình nuôi đối tượng nuôi.
Thí nghiệm được thực hiện gồm 5 nghiệm thức 0‰, 5‰, 10‰,
15‰, 20‰, kích cỡ cá trung bình khoảng 12,85±2.43 g. Thí nghiệm
được tiến hành trong 3 tháng, tăng trọng về khối lượng và chiều dài của
cá sẽ được thu mẫu sau mỗi tháng. Kết quả tỷ lệ sống của cá sau 3
tháng nuôi cao nhất ở độ mặn 5‰ (95,33%), tiếp đến ở nghiệm thức
10‰ (98,33%), kế đến là ở nghiệm thức 0‰ (68,67%), ở nghiệm thức
15‰, 20‰, cá chết hoàn toàn lần lượt ở ngày thứ 48 và 44 trong 3
tháng nuôi. Tăng trọng của cá ở các nghiệm thức 0‰, 5‰, 10‰ khác
biệt có ý nghĩa (p<0,05) thống kê và lần lượt là 5,95±2,14 g, 6,19±0,56
g và 7,71±1,03 g. Ở hai nghiệm thức 15‰ và 20‰ cá chết hoàn toàn
sau 48 và 44 ngày nuôi. Hệ số chuyển hoá thức ăn (FCR) ở các nghiệm
thức khác biệt không có ý nghĩa (p<0,05) thống kê, ở nghiệm thức 0‰
là 5,65±0,20 và ở 20‰ là 6,44±0,06.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBT Cá bống tượng
CD Chiều dài
TL Trọng lượng
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
4
Chương I
GIỚI THIỆU
Với tổng diên tích mặt nước khoảng 954.350 trong đó diện tích
nước ngọt chiếm khoảng 641.350 ha. Đồng Bằng Sông Cửu Long là
vùng có diện tích mặt nước lớn nhất nước ta. Nhờ hệ thống sông ngòi
chằn chịt tạo điều kiện cho nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển.
Nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Đồng Bằng sông Cửu Long đã phát
triển từ rất sớm, những vùng nuôi nổi tiếng như: An Giang, Đồng Tháp,
Cần Thơ,…với những đối tượng truyền thống như: cá basa, cá tra, cá
bống tượng,…Việc nuôi thương phẩm các loài cá này đã góp phần cải
thiện cuộc sống cho người dân hơn thập kỉ qua.
Cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus Bleeker) là một trong
những đối tượng có giá trị kinh tế cao và đang được nhiều người nuôi
quan tâm. Nó là loài có kích thước lớn nhất trong họ cá bống nước ngọt
có thịt thơm ngon và bổ dưỡng. Ngoài tự nhiên, cá bống tượng ăn cá,
tôm, cua, tép,…(Nguyễn Mạnh Hùng và Phạm Khánh, 2005).
Hiện nay nghề nuôi cá bống tượng chủ yếu là ở các vùng nước
ngọt nhưng lại xảy ra nhiều bệnh làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng
và năng suất, một số vùng nước lợ cũng bắt đầu nuôi và đạt được năng
suất khá cao, ít bệnh. Nhưng vấn để đặt ra là phải tìm được khoảng độ
mặn thích hợp để cá bống tượng phát triển tốt hơn đem lại năng suất
cao hơn cho người nuôi, xuất phát từ các yêu cầu trên đề tài: “Ảnh
hưởng của các độ mặn khác nhau lên tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng
của cá bống tượng (OxyeLeotris marmoratus BLeeker)” được tiến
hành.
1.1 Mục tiêu đề tài
Đánh giá tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá bống tượng ở các
độ mặn khác nhằm tìm ra khoảng độ mặn thích hợp, mang lại hiệu quả
cao nhất. Từ đó làm cơ sở để khuyến cáo các hộ nuôi thủy sản.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
5
1.2 Nội dung nghiên cứu
Ảnh hưởng của độ mặn đến tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của
cá bống tượng từ giai đoạn con giống.
1.3 Thời gian thực hiện đề tài
Thời gian: đề tài bắt đầu từ tháng 1-2009 và dự kiến kết thúc
khoảng tháng 4-2009.
Địa điểm: Khoa Thuỷ Sản Trường đại học Cần Thơ.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
6
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1.1 Hệ thống phân loại cá bống tượng: theo FAO
Lớp: Osteichthyes
Lớp phụ: Artinopteryii
Bộ: Perciformes
Họ: Eleotridae
Loài: Oxyeleotris marmoratus Bleeker
2.1.2 Một số tập tính sống của cá bống tượng (CBT)
Khi cá còn nhỏ, chúng có thể sống thành các quần đàn trong các
thủy vực tự nhiên. Đến khi trưởng thành cá ít khi sống tập trung thành
quần đàn.
Cá bống tượng sống trong các thuỷ vực nước ngọt như: sông
ngòi, kinh, rạch, ao, đìa,...Thích nơi nước ấm, nhiều rong cỏ, hang hốc.
Khi sinh sản chúng thường chọn những nơi nước chảy hoặc lưu thông.
Chúng có thể sống ở vùng có pH = 5,5 và ở nơi có độ mặn không vượt
quá 13‰. Hàm lượng oxy không thấp quá 3 mg/l. Tuy nhiên, môi
trường thích hợp cho sự phát triển của cá là: pH = 6,5 – 7, nhiệt độ từ
26 – 320C, oxy trên 3 mg/l, nồng độ muối nhỏ hơn 6‰ (Nguyễn Chung,
2007).
Đặc điểm môi trường sống rất quan trọng đối với cá bống tượng
vì không chỉ là môi trường sống đơn thuần mà còn là nơi cho các thủy
sinh vật sống phát triển tạo nguồn thức ăn tự nhiên, chỗ cư trú, là nơi
để cá đẻ. Môi trường ổn định thức ăn đầy đủ, cá có sức đề kháng cao,
cá khỏe và phát triển nhanh hơn. Khi thay đổi môi trường sống cá dễ bị
sốc, sức đề kháng yếu, dễ bị kí sinh trùng xâm nhập gây bệnh và có thể
dẫn đến chết. Ở giai đoạn cá khoảng 12 cm môi trường thay đổi cá dễ bị
sốc và chết hàng loạt (Nguyễn Chung, 2007).
Cá có thể sống trong khoảng nhiệt độ 15 – 41,50C. Nhiệt độ thích
hợp từ 26 – 320C. CBT có tập tính sống ở đáy, ban ngày thường vùi
mình xuống bùn, hang hốc, ống bộng, khi gặp nguy hiểm cá có thể chúi
xuống bùn sâu đến 1 m, có thể sống ở đó hàng chục giờ. Môi trường
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
7
nước yên tĩnh, có cỏ, cây thủy sinh làm giá đỡ, cá có thể sống ở mé bờ
gần mặt nước, cá ăn mồi sống tự nhiên. CBT thường hoạt động vào
đêm, nơi có điều kiện thuận lợi cá hoạt động cả ban ngày
(
CBT sinh sản lần đầu sau 9 – 12 tháng tuổi. Mùa sinh sản tự
nhiên kéo dài từ tháng 3 – 11, tập trung từ tháng 5 – 8. Mức sinh sản
của CBT 150.000 – 200.000 trứng/kg cá cái. Cỡ cá 150g có số trứng
nhiều nhất 270.000, cỡ cá 250g có 58.700, cỡ cá 350g có 76.000 trứng.
Cá tái phát dục khoảng 30 ngày sau. Trứng cá có dạng hình quả lê,
trứng dính. Bãi đẻ của cá nằm ở ven bờ và sâu trong nước nơi có cây cỏ
thủy sinh hay các gốc thân cây chìm trong nước (Nguyễn Mạnh Hùng
và Phạm Khánh, 2005. Kỹ thuật nuôi cá bống tượng).
Đảm bảo chất lượng thức ăn cho CBT là động vật tươi (Dương
Nhựt Long, 2003. Bài giảng kỹ thuật nuôi cá nước ngọt), không ướp
hóa chất, số lượng cho ăn đủ, không để thức ăn dư.
Tạo điều kiện cho cá bắt mồi liên tục, ngày và đêm: cá sống ở
đáy thường làm thức ăn tự nhiên cho CBT hoặc đưa cá sống từ đáy ao
sang mé ao, bằng tạo mé cỏ tối nước dày ở từng đoạn mương ao (thả lục
bình ở nơi yên tĩnh). Khi cá đã sống ở mé ao, cá giảm bệnh, cá, tép con
ban ngày trú vào rong cỏ sẽ làm mồi ăn trực tiếp cho CBT. Nuôi CBT
mà cá không có đớp mồi ban ngày là điều kiện sống ở ao mương chưa
tốt (
CBT là cá dữ nhưng nhát, ban ngày nằm sát đáy ao, hay hốc nên dễ bị
bệnh ký sinh trùng (mỏ neo, rận cá,...) làm cá chậm lớn. Dùng lá xoan bó
thành bó treo ở đầu cống nước ra vào. Nuôi CBT ở ao nếu tạo điều kiện cho cá
ăn sạch và nước tốt, lưu thông thì cá lớn như nuôi ở bè và cá ít bệnh so với bè.
2.2 Hình thái dinh dưỡng
Cá có thân dài, phần thân trước hơi tròn, phần sau dẹp ngang về
phía đuôi. Đầu rộng, hơi hẹp miệng, chẻ rộng và hướng lên trên. Chiều
dài đầu gần bằng ¼ thân. Mắt nằm ở mặt trên của đầu, hơi lồi. Các vây
to, mềm. Vây đuôi tròn, dài. Vây ngực hơi nhọn. Toàn thân cá được phủ
một lớp vẩy lược, có màu nâu nhạt hơi xám, trên thân có những đám
vân lớn như da beo (Nguyễn Mạnh Hùng và Phạm Khánh, 2005. Kỹ
thuật nuôi cá bống tượng).
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
8
CBT trưởng thành có bộ máy tiêu hóa tiêu biểu cho loài cá dữ
điển hình. Miệng lớn, răng hàm dài và sắc, tỷ lệ chiều dài của ruột trên
chiều dài thân là 0,7. CBT ăn động vật, chủ yếu là: cá, tôm, tép, cua,
trùng, ấu trùng, côn trùng, thủy sinh,... Tuy nhiên CBT khác với cá lóc,
cá lóc chủ động đuổi mồi bắt còn CBT rình bắt mồi. CBT ăn mạnh về
đêm hơn ngày, nước rong ăn mạnh hơn nước kém, nước lớn ăn mạnh
hơn nước ròng, CBT thích ăn tép, cá tươi, không thích ăn thức ăn ươn
thối.
Theo Nguyễn Chung (2007) CBT mới nở có kích thước rất nhỏ
0,3 – 0,5 mm. Khi mới nở, cá bột sử dụng noãn hoàng. Khi cá hết noãn
hoàng (từ 70 – 120 h sau khi nở) cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài như
tảo, luân trùng, hoặc thức ăn có kích thước nhỏ mịn như: bột đậu, bột
sữa, lòng đỏ trứng. Loại thức ăn thích hợp trong giai đoạn này là luân
trùng (Rotifer).
Đến giai đoạn cá hương (1,5 – 2 cm) thức ăn của chúng chủ yếu
là các phiêu sinh động vật (Daphnia, Moina). Cá cũng ăn trùng chỉ,
muỗi lắc. Càng lớn cá càng thích ăn thức ăn có nguồn gốc động vật. Khi
còn nhỏ ở giai đoạn vừa hết noãn hoàng cá rất tích cực tìm mồi, nhưng
khi lớn lên hoạt động bắt mồi của cá chậm dần. Cá hoạt động tích cực
vào ban đêm, ban ngày chúng ẩn mình để nghỉ ngơi.
2.3 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
So với các loại cá khác, CBT có tốc độ tăng trưởng trung bình
chậm, đặc biệt dưới giai đoạn 100 g, từ 100 g trở lên tốc độ tăng trưởng
của cá khá lớn. Ở giai đoạn cá bột đến cá giống, cá mất thời gian 3
tháng mới đạt chiều dài 3 – 4 cm. Từ cá giống đến khi cá đạt kích cỡ
100 g/con cho việc nuôi bè, cần 4 – 5 tháng nữa.
Để nuôi được 01 tấn sản phẩm cá bống tượng tại vùng nước lợ
nói chung và huyện Cần Giờ, Nhà Bè Tp.Hồ Chí Minh nói riêng, chỉ
cần tiêu tốn từ 6 – 8 kg cá tạp để thu về 1 kg CBT thành phẩm
(
Trong tự nhiên, những cá sống sót sau khi nở cần thời gian
khoảng 1 năm mới đạt kích cỡ 100 – 300 g/con. Để đạt khối lượng 400
g/con, cá có trọng lượng 100 g/con phải mất thời gian 5 – 8 tháng nuôi
ao đất và 5 – 6 tháng nuôi bè (Nguyễn Chung, 2007). Cá bống tượng
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
9
thành thục ở tuổi trên dưới 1 năm. Chúng dễ thành thục và chu kì phát
dục ngắn. Cá thành thục có kích cỡ từ 100 – 200 g/con.
Mùa vụ sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, thời gian đẻ rộ
từ tháng 5 – 6. Đến mùa vụ sinh sản, cá thường bắt cặp và đẻ trứng dính
vào hang hốc, bọng cây và các ống nhựa hay phiến gạch dưới ao.
Với biện pháp nuôi và kích thích nhân tạo, cá có thể kéo dài thời
gian sinh sản từ tháng 3 – 11 và tái đẻ nhiều lần trong năm. Sau khi
sinh sản cá đực canh tổ và tham gia ấp trứng cùng cá cái. Cá cái bơi
quanh tổ quạt đuôi tạo oxy cho tổ trứng. Sức sinh sản của cá bống
tượng khá cao, 1kg cá cái có thể đạt được từ 100 – 200 ngàn trứng. Tuy
sức sinh sản cao nhưng trong tự nhiên rất dễ hao hụt không còn sống
sót bao nhiêu.
2.4 Một số kết quả nghiên cứu về độ mặn
Chirstina Swnson (1998) nghiên cứu ảnh hưởng của 3 độ mặn
khác nhau (15, 35 và 50‰) lên sự thay đổi áp suất thẩm thấu của cá
Măng (Chanos chanos) và thấy rằng sau 2 h thì áp suất thẩm thấu đạt
giá trị cao nhất là 430 mOsm ở 55‰ khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,01) so với hai nghiệm thức còn lại là 372 mOsm ở 35‰ và 363
mOsm ở 15‰. Tuy nhiên, sau 4 h thí nghiệm, áp suất thẩm thấu của cá
ở nghiệm thức 55‰ giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,01) so với hai
nghiệm thức còn lại.
Patric Saoud và ctv (2007) nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn 10,
15, 20, 25, 30, 35, 45, và 55‰ lên khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu
của cá Dĩa (Sisanus rivuLatus), kết quả ở nghiệm thức 50‰, áp suất
thẩm thấu của cá đạt giá trị cao nhất (435mOsm), khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, áp suất
thẩm thấu của cá giữa các nghiệm thức còn lại từ 10‰ đến 45‰ khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Khi nuôi cá ở độ mặn 25, 30,
35, và 40‰ thì chiều dài và khối cá khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p<0,05). Tuy nhiên, hàm lượng Cl- của các nghiệm thức 35 và 40‰
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức 25 và 30‰ (p<0.05).
Khi nuôi cá bóp (Rachycentron canadum) ở độ mặn thấp, có khả
năng giảm tỷ lệ mắc bệnh và đơn giản hóa khâu quản lí nước. Đối với
tỷ lệ sống của cá hương (khối lượng trung bình 6,7 g) thì tỷ lệ sống ở
nghiệm thức 5‰ (68,3%) thấp hơn nghiệm thức 15‰ (90,0%) và
nghiệm thức 30‰ (92,5%) có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hiệu quả sử
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
10
dụng thức ăn cao hơn tất cả các nghiệm thức, nằm trong khoảng 1,05 và
1,13. Cá nuôi ở độ mặn 5‰ tăng trưởng bằng hoặc tốt hơn cá nuôi ở độ
mặn 15,30‰. Nghiên cứu này cho thấy nuôi cá bóp ở giai đoạn cá
hương trong thực tiễn nên nuôi ở độ mặn 5‰ (Matthew và ctv, 2006).
Nicholas Romano và ctv (2006) cho thấy độ mặn đã ảnh hương rõ
ràng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của ghẹ xanh (Portunus pelagicus)
con. Tỷ lệ tử vong của ghẹ xanh con cao khi nuôi ở độ mặn ≤ 15‰ và ở
độ mặn 45‰ (p<0,01). Ở độ mặn 5‰ ghẹ xanh con chết hoàn toàn sau
20 ngày nuôi. Trong tất cả độ mặn nghiên cứu, phần lớn hiện tượng tử
vong là do “hội chứng chết khi lột xác”. Nồng độ thẩm thấu huyết
tương của ghẹ thể hiện mối tương quan rõ ràng với môi trường nuôi,
với điểm đẳng áp là 1,106 mOsm tương đương với độ mặn khoảng
38‰. Tiêu hao năng lượng lớn cho điều hòa áp suất thẩm thấu do gia
tăng áp lực thẩm thấu ưu hoặc nhược trương là nguyên nhân dẫn đến tỷ
lệ sống thấp và tốc độ tăng trưởng chậm. Kết quả thí nghiệm chứng tỏ
rằng độ mặn 25 – 35‰ là thích hợp cho nuôi ghẹ xanh con.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
11
Chương III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu thí nghiệm
Nguồn cá giống được thu mua từ trại giống ở Hậu Giang và Tiền
Giang. Cá có khối lượng trung bình khoảng 10g/con, đang sống ở độ
mặn 0‰.
Bể composite (15 bể )
Máy đo oxy
Máy đo pH
Máy đo nhiệt độ
Máy sục khí
Máy đo độ mặn
Thước nhựa
Cân điện tử
Vợt vớt cá
Một số dụng cụ khác
Thức ăn là tép tươi hoặc tép đông lạnh
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm
Cá mua về đang sống ở độ mặn 0‰, và được giữ trong bể 1-
2 tuần để dưỡng cá.
Thí nghiệm được thực hiện trong bể composite 500 L, mật
độ 50 con/bể.
Nguồn nước máy được cấp trực tiếp vào bể và nước ót mua
từ Vĩnh Châu được xử lí (bằng chlorine 30 ppm), để pha các nồng độ
muối có độ mặn theo đúng yêu cầu của các nghiệm thức.
Cách thuần độ mặn: mỗi ngày tăng 3‰ đến khi đạt độ mặn
thích hợp theo công thức C1V1 = C2V2. Nước mặn được sử dụng là nước
ót mua từ Vĩnh Châu được xử lí bằng chlorine trước khi sử dụng, nước
ngọt được sử dụng là nguồn nước máy sinh hoạt.
Thí nghiệm được thực hiện trong 3 tháng, gồm 5 nghiệm thức, mỗi
nghiệm thức lặp lại 3 lần, được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
12
- Nghiệm thức I: độ mặn 0‰ (nghiệm thức đối chứng)
- Nghiệm thức II: độ mặn 5‰
- Nghiệm thức III: độ mặn 10‰
- Nghiệm thức IV: độ mặn 15‰
- Nghiệm thức V: độ mặn 20‰
Chăm sóc và quản lí
Thí nghiệm được bố trí trong bể composite có sục khí và máy lọc.
Nước: mực nước khoảng 60-70cm.
Thức ăn: tép cắt nhỏ khi cá mới đem về, sau 1 tháng nuôi không
cần cắt nhỏ tép.
Cho cá ăn khoảng 5% khối luợng thân/ngày, cho ăn 1 lần/ngày
(khoảng 16-17 h chiều)
Thay nước khoảng 2/5 bể, 3 ngày/lần.
Trong thời gian thí nghiệm thường xuyên theo dõi và ghi lại hoạt
động bơi lội, tiêu hao thức ăn và đếm số cá chết. Đồng thời kiểm tra độ
mặn giữa các nghiệm thức hằng ngày bằng khúc xạ kế.
3.3 Phương pháp thu và phân tích mẫu
Trước khi bố trí thí nghiệm, cá được xác định chiều dài, khối
lượng ban đầu bằng cách cân lấy khối lượng trung bình cá.
Chỉ tiêu tăng trưởng: thu định kì 1 lần/tháng, bằng cách bắt toàn
bộ cá ở mỗi bể để cân khối lượng, đo chiều dài nhằm kiểm tra tốc độ
tăng trưởng chiều dài, khối lượng của cá.
Cá sau khi thu xong các chỉ tiêu, được thả vào bể tiếp tục nuôi để
xác định tỉ lệ sống sau khi kết thúc thí nghiệm.
3.4 Chuẩn bị thức ăn và phương pháp cho ăn
Cá đựơc cho ăn bằng thức ăn tươi, tép sống hoặc tép đông lạnh.
Tép được rửa kĩ để loại bỏ ốc và cá tạp, nhằm hạn chế sự xâm nhập của
mầm bệnh từ bên ngoài.
3.5 Các chỉ tiêu theo dõi và tính toán
Độ mặn được kiểm tra hằng ngày bằng khúc xạ kế.
Oxy: được đo bằng máy đo oxy 2 lần/ngày vào buổi sáng và
chiều.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
13
pH đựợc đo bằng máy đo pH 2 lần/ngày vào buổi sáng và
chiều.
Nhiệt độ được đo bằng máy đo 2 lần/ngày vào buổi sáng và
chiều.
Các chỉ tiêu môi trường NO2-, NO3-, NH3 được theo dõi 10
ngày/lần bằng bộ kít.
Bệnh cá trong suốt quá trình nuôi (3 tháng) ở các nghiệm
thức.
Tương quan chiều dài trọng luợng ở các nghiệm thức.
3.6 Tỷ lệ sống (SurvivaL rate, SR)
SR(%) = (Số cá thu được / Số cá thả lúc đầu) x 100
Tăng trưởng tuyệt đối (DWG) (g/ ngày) = (Wt–Wo)/t
Tăng trưởng tương đối (SGR) (%/ngày) = 100 x (LnWt-LnWc)/t
Trong đó:
Wo: Khối lượng cá ở thời điểm ban đầu (g)
Wt: Khối lượng cá ở thời điểm cuối (g)
t :Thời gian nuôi (ngày)
Hệ số tiêu tốn thức ăn (Feed Conversion Ratio, FCR)
FCR = Lượng thức ăn sử dụng / Khối lượng của cá gia tăng
Ghi chú: sau mỗi lần cho ăn thì vớt thức ăn dư sau khi cá ăn
để qui ra khối lượng khô và từ đó xác định lượng thức ăn cá đã ăn.
3.7 Xử lí số liệu
Số liệu được xử lí theo chương trình Excel version 5.0 và SPSS.
So sánh trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào phương pháp phân
tích ANOVA version 3.0 và phép thử DUCAN ở mức ý nghĩa p < 0,05.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
14
Chương IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Các yếu tố môi trường
4.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố môi trường cần thiết đối với đời sống thuỷ sinh
vật bởi vì tôm, cá là động vật biến nhiệt. Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp
đến các quá trình sống của cá như: quá trình trao đổi chất, hô hấp, sinh
trưởng, cường độ bắt mồi,… Trong thời gian thí nghiệm nhiệt độ trung
bình giữa các nghiệm thức thay đổi không đáng kể, dao động trong
khoảng 26,14±0,890C đến 26,82±0,870C, nhìn chung vào thời gian thí
nghiệm thời tiết hay thay đổi do trời mưa nắng thất thường nên dùng
các dụng cụ tăng nhiệt để điều hoà nhiệt độ phù hờp với cá. Nhiệt độ
sáng chiều chênh lệch trung bình khoảng 0,50C ở các nghiệm thức. Do
thí nghiệm được bố trí ở nơi tương đối kín đáo nên sự chênh lệch nhiệt
độ giữa sáng và chiều không cao, rất phù hợp cho sự phát triển của cá.
Do CBT là loài rộng nhiệt có thể