Ở Việt Nam trong những năm qua thành công nổi bật của điều tiết vĩ mô
là đã kiểm soát và duy trì được lạm phát ở mức độ thấp trong điều kiện nền
kinh tế có tăng trưởng khá. Đóng góp phần quan trọng cho thành công đó
không thể không đề cập đến việc sử dụng có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc
gia. Trong đó lãi suất tín dụng là một công cụ hết sức quan trọng và được coi
là nhạy cảm nhất trong các công cụ cuả chính sách tiền tệ . Lãi suất tín dụng
có tác động to lớn đến việc điều tiết mức cung tiền, mở rộng hay thu hẹp đầu
tư, khuyến khích hay hạn chế huy động vốn, từ đó tác động tới tăng trưởng
kinh tế, giá trị đồng nội tệ, tạo thuận lợi hay khó khăncho hoạt động của ngân
hàng. Vai trò của lãi suất ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn phát
triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước tiến hành công
cuộc công nghiệp hoá -hiện đại hoá.
Chính vì vậy nghiên cứu hệ thống lãi suất của Việt nam đã trở thành mối
lưu tâm của nhiều chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kinh tế và các tầng lớp
dân cư. Dựa trên cơ sở những kiến thức đã học và những hiểu biết thực tế của
mình em chọn nghiên cứu đề tài :
” Bàn về hệ thống lãi suất tíndụng ở Việt Nam hiện nay”.
44 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
“Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam
hiện nay”.
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam trong những năm qua thành công nổi bật của điều tiết vĩ mô
là đã kiểm soát và duy trì được lạm phát ở mức độ thấp trong điều kiện nền
kinh tế có tăng trưởng khá. Đóng góp phần quan trọng cho thành công đó
không thể không đề cập đến việc sử dụng có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc
gia. Trong đó lãi suất tín dụng là một công cụ hết sức quan trọng và được coi
là nhạy cảm nhất trong các công cụ cuả chính sách tiền tệ . Lãi suất tín dụng
có tác động to lớn đến việc điều tiết mức cung tiền, mở rộng hay thu hẹp đầu
tư, khuyến khích hay hạn chế huy động vốn, từ đó tác động tới tăng trưởng
kinh tế, giá trị đồng nội tệ, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động của ngân
hàng. Vai trò của lãi suất ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn phát
triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước tiến hành công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chính vì vậy nghiên cứu hệ thống lãi suất của Việt nam đã trở thành mối
lưu tâm của nhiều chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kinh tế và các tầng lớp
dân cư. Dựa trên cơ sở những kiến thức đã học và những hiểu biết thực tế của
mình em chọn nghiên cứu đề tài :
” Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam hiện nay”.
3
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 3
Chương I : Lý luận chung về lãi suất tín dụng. 4
I. Khái niệm về lãi suất tín dụng: 4
Khái niệm lãi suất
II. Những vấn đề cơ bản về lãi suất tín dụng: 4
1. Nguyên tắc xác định lãi suất. 4
2. Các loại lãi suất tín dụng. 4
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. 5
4. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 5
5. Ngân hàng trung ương và việc điều hành lãi suất. 6
Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam và
định hướng điều hành lãi suất tín dụng thời gian tới. 8
I. Điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam - ưu nhược điểm và
tác dụng đối với phát triển kinh tế xã hội. 8
1. Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989.
8
2. Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993.
9
4
3. Giai đoạn từ ngày 01/ 10/ 1993 đến ngày 01/ 01/ 1996.
9
4. Giai đoạn từ sau ngày 01/ 01/ 1996 đến nay.
10
II. Một số ý kiến về hệ thống lãi suất tín dụng và định hướng
điều hành lãi suất tín dụng trong thời gian tới.
16
1. Một số ý kiến về hệ thống lãi suất tín dụng và giải pháp xử lý
những bất hợp lý về lãi suất . 36
2. Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam thời gian tới.
19
Kết luận. 44
5
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
I. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội luôn tồn tại những
hiện tượng có những tác nhân tạm thời có một số vốn nhàn rỗi bên cạnh
những tác nhân tạm thời thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn này đồng thời để
thoả mãn nhu cầu cũng như đem lại lợi ích cho cả người thừa vốn lẫn người
thiếu vốn, quan hệ tín dụng nảy sinh. Khi đó người thừa vốn sẽ cho người
thiếu vốn được quyền sử dụng số vốn tiền tệ của mình trong một thời gian xác
định với điều kiện người sử dụng số vốn đó phải hoàn trả lại đúng thời hạn và
thêm vào đó là khoản tiền dôi dư tính cho quyền sử dụng số vốn đó. Đó chính
là cơ sở xuất hiện của lãi suất.
. Khái niệm chung nhất về lãi suất :
6
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là : ”Lãi suất tín dụng là
tỷ lệ phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay
trong một thời kỳ nhất định”.
Lãi suất Số lợi tức thu được trong kỳ
= 100 ( % ).
tín dụng Số tiền vay phát ra trong kỳ
Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay, hay nói cách khác, đó
chính là phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu
được sau một thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng chính là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi tức cao
hay thấp khác nhau.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT :
1. Nguyên tắc xác định lãi suất :
1.1.Căn cứ vào quan hệ cung - cầu tiền vay:
Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại. Khi
cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.
1.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Lãi suất Lãi suất Lãi suất
tín dụng tín dụng tín dụng
ngắn hạn trung hạn dài hạn.
1.3. Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương:
Tỷ lệ Lãi suất Lãi suất Tỷ suất
lạm phát huy động cho vay lợi
nhuận
bình quân vốn bình quân bình quân bình
quân.
2. Các loại lãi suất tín dụng :
7
2.1. Lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng trung ương công bố trên cơ sở đó các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng quy định lãi suất kinh doanh
đảm bảo có lãi.
2.2. Lãi suất tái chiết khấu:
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất do Ngân hàng trung ương quy định để cho
vay đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng dưới hình thức
tái chiết khấu, tái cầm cố các thương phiếu và giấy tờ có giá.
2.3. Lãi suất trần và lãi suất sàn:
Đó là mức lãi suất cao nhất và mức lãi suất thấp nhất trong một khung lãi suất
do Ngân hàng trung ương quy, lãi suất của ngân hàng thương mại có thể tự do
dao động trong khung đó.
2.4. Lãi suất danh nghĩa:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính đến
sự biến động của giá trị tiền tệ.
2.5. Lãi suất thực:
Lãi suất thực là lãi suất mà người cho vay được hưởng sau khi đã tính đến
sự biến động của tiền tệ như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
-. Cung và cầu về tiền vay:.
- Mức độ rủi ro trong việc hoàn trả vốn.
-. Số lượng vốn vay và thời hạn vay.
-. Mức sinh lời của nền kinh tế.
- Thu - chi Ngân sách Nhà nước.
-. Chi phí hoạt động của Ngân hàng .
- Lạm phát.
4. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
4.1. Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
8
Bằng việc tăng hay giảm lãi suất cho vay sẽ tác động đến việc thu hẹp hay
mở rộng sản xuất, kìm hãm hay thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng hay giảm
tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Bằng việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi sẽ ảnh hưởng đến việc thu hẹp
hay khuyến khích cầu tiêu dùng tư tác động đến thu hẹp hay mở rộng sản
xuất.
Bằng việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ tác động đến việc thu
hút ngoại tệ từ nước ngoài vào, ảnh hưởng đến cung - cầu về ngoại tệ, có tác
động đến xuất - nhập khẩu của quốc gia trong từng thời kỳ, ảnh hưởng đến
thu - chi của cán cân thanh toán quốc tế.
Lãi suất tín dụng còn được coi là công cụ hiệu quả nhất để chống lạm
phát, ổn định sức mua của đồng tiền.
Với những tác động to lớn của mình tới các yếu tố của kinh tế vĩ mô nên
lãi suất được coi là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
4.2. Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô:
Trước hết lãi suất là công cụ điều chỉnh vốn từ nơi tạm thời thừa sang nơi
tạm thời thiếu, từ đó góp phần tạo nên một mặt bằng giá cả hợp lý tạo điều
kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường.
Bên cạnh đó lãi suất còn là công cụ để củng cố và tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế trong từng doanh nghiệp.
4.3. Lãi suất là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại:
Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại là các doanh
nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Thực chất của hoạt
động cạnh tranh này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của ngân hàng ra thị trường. Để tồn tại và đảm bảo thắng trong cạnh
tranh, các ngân hàng phải tìm mọi giải pháp để giảm chi phí quản lý và chi
phí nghiệp vụ để có thể chấp nhận một lãi suất tiền gửi cao nhất và một lãi
9
suất cho vay thấp nhất. Quá trình cạnh tranh này sẽ tạo lợi ích thiết thực cho
khách hàng, doanh nghiệp, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế nói chung .
4.4. Lãi suất là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư :
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản
về thu nhập :
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm.
Phương trình này có thể sử dụng để phản ánh thu nhập của mỗi gia đình,
doanh nghiệp hay một quốc gia.
Để tăng tỷ lệ tiết kiệm, khuyến khích đầu tư thì biện pháp có hiệu quả nhất
là tăng lãi suất tiền gửi. Khi lãi suất tiền gửi thực tế tăng cao sẽ là cơ sở để
mọi người yên tâm gửi tiền vì được đảm bảo bằng một mức lợi tức cao và an
toàn, từ việc tăng nguồn tiền gửi đã làm tăng mức cung ứng vốn tạo điều kiện
mở rộng đầu tư.
Ngược lại, khi tăng lãi suất cho vay thì sẽ hạn chế đầu tư do mức sinh lợi
và lãi suất phải trả chênh lệch không nhiều, khi đó không khuyến khích đầu
tư.
Lãi suất tín dụng tác động đến kinh tế vi mô : ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu dùng, tiết kiệm của dân cư, giúp các
quan hệ thanh toán - tín dụng được thuận lợi từ đó góp phần giữ vững các cân
đối kinh tế, thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định giá trị của đồng tiền, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5. Ngân hàng trung ương và việc điều hành hệ thống lãi suất :
Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ là một nhiệm vụ cơ bản của
Ngân hàng trung ương. Chính sách tiền tệ gồm hai công cụ chủ yếu là mức
cung tiền và lãi suất. Điều chỉnh mặt cung tiền của thị trường tiền tệ qua 3
công cụ chính: hoạt động thị trường mở, quy định lãi suất tái chiết khấu và tỷ
lệ dự trữ bắt buộc và trên cơ sở mối tương tác giữa cung - cầu tiền tệ hình
mức lãi suất trên thị trường là cách điều tiết gián tiếp. Còn Ngân hàng trung
ương trực tiếp ấn định lãi suất thị trường và điều chỉnh mức cung tiền cho phù
10
hợp với nhu cầu tiền tương ứng với mức lãi suất đó là cách điều tiết trực tiếp.
Ở các nước khác nhau chính sách lãi suất được vận hành theo những cách
khác nhau, Ngân hàng trung ương sẽ chọn một trong hai cách điều hành lãi
suất như sau:
Một là,Ngân hàng trung ương ấn định lãi suất :
+ Để tránh rủi ro cho các ngân hàng thương mại Ngân hàng trung ương
thường quy định mức lãi suất trần tiền gửi và mức lãi suất tối thiểu ( sàn ) cho
vay.
+ Để bảo vệ lợi ích của khách hàng của ngân hàng thương mại thì Ngân
hàng trung ương thường quy định ngược lại: mức lãi suất sàn tiền gửi và lãi
suất trần cho vay( như ở Việt Nam )
+ Cũng có trường hợp Ngân hàng trung ương chỉ khống chế lãi suất trần
cho vay(giá đầu vào) do các Ngân hàng thương mại chủ động quyết định.
Hai là thả nổi lãi suất :
Lãi suất là giá mua và giá bán của một loại hàng hoá đặc biệt là quyền sử
dụng vốn, lãi suất còn tuỳ thuộc vào quan hệ cung - cầu về vốn. Với quan
điểm cho rằng đã là giá cả thì lãi suất phải biến động, phải được tự do hoá,
nhiều nước đã từ bỏ biện pháp ấn định khung lãi suất cứng nhắc, chuyển qua
thả nổi lãi suất trên thị trường tiền tệ . Bởi vì rõ ràng, lãi suất cứng nhắc sẽ
làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, hoạt động của các
ngân hàng thương mại sẽ gặp nhiều khó khăn.
Với vai trò là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung
ương tác động gián tiếp đến lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng
thương mại bằng lãi suất tái chiết khấu của mình nhằm điều tiết cung - cầu
tín dụng. Tức là để mở rộng khối tiền tệ Ngân hàng trung ương áp dụng một
lãi suất chiết khấu hạ thấp khuyến khích các ngân hàng thương mại, tổ chức
11
tín dụng vay vốn Ngân hàng trung ương từ đó khuyến khích đầu tư. Ngược lại
khi cần thắt chặt tín dụng, Ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất tái chiết
khấu lên, ngăn cản các ngân hàng thương mại , tổ chức tín dụng vay vốn từ
Ngân hàng trung ương do đó hạn chế đấu tư . Như vậy lãi suất tái chiết khấu
sẽ tác động gián tiếp lên thị trường qua các ngân hàng thương mại .
Căn cứ vào thực tế cụ thể của Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã lựa chọn công cụ lãi suất điều tiết trực tiếp
thị trường tiền tệ .
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung do không nhận thức hết tầm quan
trọng của lãi suất, một thời gian dài đã duy trì lãi suất cố định rất thấp so với
lợi nhuận và âm nhiều so với mức trượt giá.
Trong cơ chế thị trường, lãi suất tác động một cách nhanh nhạy đối với các
hoạt động kinh tế vì vậy đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách lãi suất phù
hợp, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp chủ
động kinh doanh. Đầu năm 1989 Chính phủ đã quyết định thay đổi một cách
cơ bản: chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương và đạt được
lãi suất dương đầy đủ cuối quý I năm 1993. Để phù hợp với cơ chế mới, vừa
đảm bảo giá trị tiền gửi cho dân chúng, kích thích tăng trưởng kinh tế, Ngân
hàng Nhà nước luôn bám sát sự biến động của lạm phát để điều chỉnh lãi suất.
Trong việc điều hành lãi suất đã có những chuyển biến tích cực như:
+ Thực hiện xoá bỏ sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế nhưng
có sự ưu đãi với vùng núi, hải đảo, cho người nghèo vay, hỗ trợ việc làm ở
thành thị, sinh viên, ...
+ Từ việc quy định nhiều lãi suất khác nhau Ngân hàng Nhà nước chỉ thực
hiện quản lý lãi suất trần cho vay và sàn lãi suất tiền gửi.
12
+ Thực hiện thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay bằng
nội tệ và ngoại tệ.
+ Nâng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên gần bằng lãi suất cho vay ngắn
hạn nhằm kích thích thay đổi cơ câú đầu tư, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nền kinh tế .
Cuối năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức
tín dụng ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động Ngân hàng.
Điều 18 Luật Ngân hàng Nhà nước ghi : ” Ngân hàng Nhà nước xác định và
công bố lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn”. Có thể hiểu đây là căn cứ pháp
lý, cơ hội để Ngân hàng Nhà nước thực hiện những cải cách mới trong chính
sách điều hành lãi suất, tăng cường tính hướng dẫn.
Nền kinh tế Việt Nam có những biến chuyển khá phức tạp, trong từng thời
kỳ phát triển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất như thế
nào
13
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN
DỤNG
THỜI GIAN TỚI .
I. ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM - ƯU NHƯỢC
ĐIỂM VÀ TÁC DỤNG
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC:
Trong quá trình vận hành lãi suất cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
+ Lãi suất thực phải nhỏ hơn hoặc bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân.
14
+ Lãi suất danh nghĩa = ( Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát dự kiến ), nghĩa là
phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp
thời và linh hoạt.
+ Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát để khuyến
khích tiết kiệm, tránh tích luỹ vàng, ngoại tệ.
+ Lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động trung bình,
khoản chênh lệch chính là lãi suất gộp của ngân hàng để bù đắp chi phí, phí,
dự trữ bắt buộc, đề phòng rủi ro và có lãi, đảm bảo hài hoà 3 mặt lợi ích của
người gửi tiền, người vay và bản thân ngân hàng.
+ Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn.
+ Lãi suất nội tệ phải tương đương lãi suất ngoại tệ ( đã trừ trượt giá ) .
+ Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế .
Những nguyên tắc trên vận dụng trong điều hành lãi suất ở Việt Nam
không phải lúc nào cũng được tuân thủ triệt để. Nguyên nhân là do nền kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và chuyển đổi cơ
chế biến động rất phức tạp. Chẳng hạn như trong thời kỳ lạm phát phi mã thì
chúng ta áp dụng chính sách lãi suất rất cao song vẫn không hơn tỷ lệ lạm
phát. Trong điều kiện nền kinh tế còn non trẻ thiếu thốn cơ sở vật chất kỹ
thuật, để khuyến khích đầu tư dài hạn chúng ta đã để lãi suất cho vay dài hạn
thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn v.v... Căn cứ vào các yêu cầu phát triển
kinh tế cụ thể của đất nước và sự chỉ đạo hướng dẫn của Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã can thiệp điều chỉnh lãi suất tín dụng phù hợp
với từng thời kỳ. Việc điều hành lãi suất thực tế diễn ra như thế nào mức độ
15
can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với lãi suất thay đổi ra sao Lãi suất đã
thực sự phát huy được vai trò của mình hay chưa Trả lời cho những câu hỏi
ấy chúng ta cần xem xét cụ thể qua các giai đoạn điều hành lãi suất. Cụ thể
chia thành các giai đoạn sau :
+ Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989.
+ Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993.
+ Giai đoạn từ tháng 10 - 1993 đến 01 - 01 - 1996.
+Giai đoạn từ sau ngày 01-01-1996.
1. Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989:
Đây là thời kỳ điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất âm. Trong giai đoạn
này tuỳ từng thời gian Ngân hàng Nhà nước có điều chỉnh lãi suất nhưng do
lạm phát phi mã ( tỷ lệ lạm phát năm 1986 là 747,7% , năm 1987 là 301,3% )
nên lãi suất luôn ở tình trạng âm:
+ Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn mức lạm phát .
+ Lãi suất cho vay thấp hơn mức lãi suất huy động.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực:
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông, giải
toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất tạo lợi nhuận giả cho doanh
nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp cho khách hàng qua lãi suất tạo lỗ không đáng có cho
ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh bình thường, lãi suất hoàn toàn
do Nhà nước quyết định theo ý muốn chủ quan.
Từ đó hình thành nên các kết quả trái ngược nhau, bất hợp lý giữa người
gửi tiền, ngân hàng và người vay vốn. Người ta đã ví việc gửi tiền tiết kiệm
16
như là việc bán một con trâu lấy tiền gửi vào ngân hàng, khi rút tiền ra thì số
tiền ấy chẳng mua nổi cái dây thừng.
2. Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993:
Thời kỳ này Ngân hàng Nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất,
chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu
thông về, kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất huy động
lên rất cao trong một thời gian ngắn: lãi suất không kỳ hạn là 9% / tháng tức
là 108% / năm, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 12% / tháng tức là
144%/năm. Việc làm đó đã thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông,
tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. Siêu lạm phát bị chặn đứng
nhanh chóng, sau đó xảy hiện tượng giảm lạm phát vào tháng 5 đến tháng 7 /
1989, được ổn định với mức thấp cho tới tháng 6 / 1990. Giá vàng, đôla Mỹ
giảm đáng kể chứng tỏ lòng tin của dân cư đối với đồng nội tệ được phục hồi.
Chính sách lãi suất trên đã có hiệu quả tức thì nhưng chỉ thích hợp với
những bối cảnh lịch sử nhất định vì đây chỉ là biện pháp can thiệp trực tiếp
vào thị trường tiền tệ tương tự như việc ấn định giá bằng các biện pháp hành
chính của Nhà nước cho hàng hoá trên thị trường.Từ 20/3/ 1990 đến tháng 11/
1990 Ngân hàng Nhà nước vẫn để lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 4%, tiền
gửi không kỳ hạn là 1,8%/ tháng, lãi suất cho vay các tổ chức kinh tế là 2,4%/
tháng thấp hơn lãi suất tiền gửi là 1,6%/ tháng, do vậy Nhà nước phải bù lỗ
cho ngân hàng hơn 400 tỷ đồng.
Thực tế lãi suất ở Việt Nam biến động hết sức thất thường và hệ thống
thông tin số liệu chưa cho phép dự đoán tỷ lệ lạm phát chính xác, do đó khi
lấy lạm phát làm cơ sở quy định mức lãi suất đã làm cho mức lãi suất thực tế
dao động mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô không duy trì được trong thời gian
dài. Nửa cuối năm 1990 và đầu năm 1992 lạm phát lại quay trở lại.
17
Trước tình hình đó, tháng 6/ 1992,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có sự
điều chỉnh lãi suất theo hướng lãi suất dương và đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng:
+ Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương tức là lãi suất tiền gửi cao hơn mức
lạm phát và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích
của người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng.
+ Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
kinh doanh thực