Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con người
bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý nghĩa quan
trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập với thế giới
trong xu thế toàn cầu hóa.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành
những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bản
chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống
ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của
bản sắc văn hóa dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của
văn hóa dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở tinh thần
đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị động để
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt
trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn 80 năm qua định hướng
dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn
nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về
đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn
hóa nước ta là
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao [31, tr.54]
101 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4251 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Báo chí với việc tuyên truyền
giá trị văn hóa truyền thống của các
dân tộc thiểu số vùng tây bắc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con người
bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý nghĩa quan
trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập với thế giới
trong xu thế toàn cầu hóa.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành
những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bản
chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống
ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của
bản sắc văn hóa dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của
văn hóa dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở tinh thần
đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị động để
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt
trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn 80 năm qua định hướng
dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn
nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về
đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn
hóa nước ta là
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người…tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao… [31, tr.54]
Có thể nói Nghị quyết TW V là nguồn cảm hứng, nâng cao tinh thần của
nhân dân ta bước vào thế kỷ mới, làm cho văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Nghị quyết cũng chỉ rõ “ nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [31, tr.57].
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc
phòng, được coi là “phên dậu” của tổ quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây
đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu năm xưa. Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi
cao chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Dãy núi Hoàng Liên Sơn cao đến 1500m dài tới
180km, rộng 30km, với một số đỉnh núi cao trên 3000m, vùng Tây Bắc có 2 con sông lớn
đó là sông Đà và sông Thao (Tức là sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng trên vùng
Tây Bắc. Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo nên cho vùng Tây Bắc không gian văn hóa
dân tộc đặc sắc, nổi bật nhất là văn hóa dân tộc Thái với những điệu múa xòe uyển chuyển,
quyến rũ với trang phục dân tộc độc đáo, kín đáo nhưng gợi cảm, với những trái Còn, trái Pa
Pao chao liệng khi xuân đến, Và với những phiên chợ tình thơ mộng, lãng mạn của dân tộc
Mông...Ngoài ra vùng Tây Bắc còn có gần 30 dân tộc anh em các dân tộc thiểu số, sống
đoàn kết hòa thuận muôn đời bên nhau.
Vùng Tây Bắc Việt Nam có một nền văn hóa cội nguồn đa dạng, độc đáo, được
kết tinh từ đời này sang đời khác. Đó là một trong những nội lực to lớn của đất nước.
Nhưng hiện nay, giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc đang xuất hiện xu
hướng bị đồng hóa về văn hóa, từ nghi thức sinh hoạt, lễ hội tín ngưỡng, phong tục tập
quán, đến những bộ trang phục truyền thống các dân tộc giờ đây ít được lớp trẻ chuộng
dùng, tiếng nói riêng của từng dân tộc cũng bị pha trộn, nhiều lớp trẻ không biết nói của
dân tộc mình. Âm nhạc, những làn điệu dân ca cũng bị xem thường hoặc chỉ là thú vui
của người cao tuổi...do đó, “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và
xây dựng những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số”
[31, tr.65] cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà nghị quyết Trung ương V
khóa VIII của Đảng cũng đã đề cập tới.
Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng bộ, chính quyền các
tỉnh vùng Tây Bắc, hệ thống báo chí đã có những đóng góp tích cực trong việc tuyên
truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến đông đảo nhân
dân góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân
dân các dân tộc, nhất là trong công tác tuyên truyền việc giữ gìn và nâng cao bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số. Bằng sức mạnh của mình, báo chí tác động vào nhận
thức của công chúng, của xã hội, tạo ra ý thức cao về vị trí vai trò của văn hóa trong
phát triển, từ đó xây dựng nên những ước muốn gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhằm tăng thêm sức mạnh nội sinh, phát triển đất
nước, tiến lên giàu đẹp, văn minh. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng việc tuyên
truyền văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng Tây Bắc thời gian qua
vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế như: nội dung thể hiện chưa phong phú, đa dạng, chậm
đổi mới, chưa hấp dẫn, đội ngũ phóng viên, biên tập viên chưa có chuyên môn sâu,
cũng như sự am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số còn bất cập...Nền kinh tế thị
trường do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được kết quả
bước đầu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những hệ lụy do mặt trái của cơ chế thị trường
gây ra cũng không phải là nhỏ, đang tác động trực tiếp vào đời sống văn hóa của nhân
dân, có nguy cơ làm sói mòn đạo đức dân tộc, hủy hoại những giá trị dân tộc mà ông
cha ta bao đời nay dầy công vun đắp.
Tây Bắc là một vùng có cơ cấu dân tộc thiểu số cùng chung sống khá đa dạng với
gần 30 tộc người. Qua cơ cấu dân tộc của Tây Bắc cho thấy nơi đây có một nền văn hóa
rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc có nét đẹp, giá trị bản sắc văn hóa riêng. Trước
tình hình đó, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, khoa học tìm ra những giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyền truyền bảo tồn những bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số. Cho nên tôi chọn đề tài: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc nhằm nghiên cứu vấn đề giữ gìn
giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa đã có nhiều công trình
nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi nhà khoa học lại có cách nhìn và tiếp
cận vấn đề khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Công trình nghiên cứu của Phan Ngọc (2002):Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (1996): Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Trần Văn Bính (2004): Văn hóa các dân tộc Tây
Bắc- Thực trạng và những vấn đề đặt ra,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nông Quốc
Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Vi Hồng Nhân (1996): Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội; Trần Quốc Vượng (2003): Văn
hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội; Hoàng Vinh (1997): Một số
vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa các dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Hoàng Nam (1998): Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam,Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2003): Trang phục
các tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày- Thái;
Các luận văn đại học và sau đại học có đề tài liên quan đến truyền thống văn
hóa dân tộc
Chu Đức Kìu (1993): Khảo sát đội ngũ nhà báo dân tộc ít người Cao Bằng lịch sử và
thực trạng”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Hà Nội.
La Vũ Quang (1993): Một số vấn đề về tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả thông
tin, tuyên truyền với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở buổi phát thanh đại gia đình các
dân tộc Việt Nam. Luận văn tốt nghiệp đại học. Hà Nội.
Giàng Seo Pùa năm (1994): Những bước đi ban đầu của chương trình phát thanh tiếng
Mông (Đài tiếng nói Việt Nam), Tiềm năng và xu hướng phát triển”, Luận văn tốt nghiệp đại
học, Hà Nội.
Nguyễn Thu Liên (1997): Vấn đề giũ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong các chương
trình phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, Luận án thạc sỹ báo chí, Học viện báo chí và
tuyên truyền quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đặng Đình Quang( 1997): Hoạt động thông tin báo chí Tỉnh Lào Cai trong thời kỳ đổi
mới, Luận văn thạc sĩ báo chí, Hà Nội.
Nguyễn Xuyên An Việt (2001): “ Thông tin về miền núi và dân tộc trên sóng VTV1 -
Đài truyền hình Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội
Đỗ Thanh Phúc (2005): “ Vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
sóng truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Hòa Bình”, Luận văn thạc sỹ truyền
thông đại chúng.
Trịnh Liên Hà Quyên (2006): “ Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa trong giai đoạn hiện nay” Luận văn thạc sỹ truyền thông đại chúng, Hà Nội.
Tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu sâu về vấn đề bảo tồn bản sắc,
giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số, song chưa có công trình nào nghiên
cứu, đề cập đánh giá một cách khách quan, khoa học đến việc tuyên truyền giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trên hệ thống báo chí, hy vọng sẽ góp
thêm một cách nhìn trong việc tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về vấn đề giữ gìn giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí Tây Bắc, luận văn chỉ ra được thực trạng,
đề xuất các phương hướng cụ thể nhằm tăng cường vai trò tác động của báo chí trong việc
tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Đi vào phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Khảo sát Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La, Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối
Reo về việc tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số từ tháng 1 năm 2008 đến
tháng 6 năm 2009.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng
Tây Bắc.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác giả sẽ chỉ tập trung khảo sát,
đánh giá những bài viết liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống đặc sắc và độc đáo của dân tộc thiểu số, thông qua các chuyên trang,
chuyên mục cụ thể của hệ thống các loại hình báo chí Sơn La. Với thời lượng một
năm rưỡi (từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009), với những tài liệu tin, bài
thu thập liên quan đến vấn đề nghiên cứu là cơ sở nhận xét đánh giá khách quan cho
đề tài nghiên cứu.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
báo chí và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; những đường lối, chủ trương về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước.
Mặt khác còn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết truyền thông và cơ sở lý
luận báo chí. Đề tài còn dựa vào lý thuyết đặc điểm của văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số để nghiên cứu, đánh giá.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thống kê các bài viết liên quan đến tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số trên Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo, chương trình phát
thanh, truyền hình trong thời gian từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009. Trên cơ sở
đó đánh giá, phân tích rõ hơn vai trò, vị trí của báo chí Sơn La với vấn đề tuyên truyền
giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với đối tượng là
công chúng báo chí Sơn La để tăng thêm tính khách quan cho đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên về công tác báo chí với việc tuyên truyền những giá trị
văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, cho nên đề tài sẽ có ích cho
đối tượng lãnh đạo, quản lý báo chí hiểu hơn về vai trò, vị trí, thực trạng của hệ thống
báo chí trong việc sản xuất các chương trình nhằm giữ gìn và nâng cao giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, từ đó có những
chính sách phù hợp nhằm lãnh đạo, quản lý hiệu quả hơn. Đề tài cũng có thể là tài liệu
tham khảo cho những người quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số nói chung vùng Tây Bắc nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Bước đầu tổng kết khái quát những quan điểm cơ bản về báo chí với vấn đề giữ
gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc tổ quốc.
6.2. Về thực tiễn
Làm phong phú thêm những công trình nghiên cứu về giữ gìn bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc và nhất là việc phát huy vai trò của báo chí trong công tác giữ gìn
những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc. Từ việc nâng cao ý thức công dân, cộng đồng các
dân tộc trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo dựng thói quen,
nếp sống coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình, tạo môi trường thuận lợi trong việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa, từ đó tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ phát triển những
giá trị văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc.Những hệ thống giải pháp và biện pháp
thiết thực của đề tài sẽ góp phần thực hiện tốt không chỉ công tác thông tin, tuyên truyền
trên báo chí mà còn nâng cao nhận thức, ý thức của cả cộng đồng về góp phần gìn giữ
bản sắc văn hóa dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 11 tiết.
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Văn hóa
Nói về văn hóa đó là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội,
thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện sức sống, sức sáng
tạo của một dân tộc. Ta có thể thấy ở văn hóa nổi lên những đặc trưng cơ bản nhất là tính
nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử.
Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng
lực, bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội .Do
đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của hoạt
động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Có thể coi
đó là ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào cái
cái chân, cái thiện, cái mỹ bị lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc… [ 35,
tr.12].
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “Văn hóa” được những nhà nhân loại học phương tây
sử dụng như là một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế
giới cơ thế giới có thể chia ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn
lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là
toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong
tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được, với tư cách là một thành
viên của xã hội.
Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo (F.Boas) ý nghĩa văn hóa được qui
định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”,
vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí,
lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa. Văn hóa không xét ở góc độ cao thấp mà
xét ở góc độ khác biệt [66, tr.18].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền với con người
và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn hóa là ở hoạt động sáng tạo
của con người. V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen từ quan
điểm xem xét văn hóa với tư cách là sự phát triển bản chất của con người đã nhấn mạnh,
phân tích sâu thêm mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người
nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai cấp, tính kế thừa của văn hóa. Đặc biệt xem cách
mạng văn hóa như một bộ phận hữu cơ của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, tinh hoa
văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, từ năm 1943 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương pháp sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa” [28, tr.17]. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn
hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm những gì không phải
là của thiên nhiên mà liên quan tới con người trong quá trình tồn tại, phát triển quá trình
con người làm nên lịch sử…” [66, tr.21].
Hoặc theo định nghĩa của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất,
Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và
vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét
về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ
văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một
phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công
trình vượt trội lên bản thân [66, tr.23-24].
Văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau, trên cơ sở phân tích những định nghĩa về
văn hóa PGS. TSKH: Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này
đã nêu bật được bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa: Tính hệ thống, tính giá
trị, tính lịch sử và tính nhân sinh [66, tr.22].
Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, Văn hóa là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự
phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo nền tảng tinh thần của
xã hội…” [28, tr.212].
Cho đến nay, mọi người chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định
nghĩa văn hóa. Từ năm 1952, một số nhà dân tộc học người Mỹ đã trích lục được trên
dưới ba trăm định nghĩa về văn hóa của các tác giả khác nhau trên t