Lễ hội cổ truyền là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần, bắt nguồn và phát
triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp biến văn hoá của cộng
đồng. Lễ hội cổ truyền chứa đựng tất cả những khát vọng, những ước muốn tâm linh vừa
linh thiêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư trong những hoàn cảnh cụ thể. Đây là một
bộ phận quan trọng của văn hoá dân tộc, được lưu truyền qua hàng nghìn năm lịch sử.
Muốn nghiên cứu văn hoá truyền thống, lẽ đương nhiên là phải tìm đến lễ hội, đặc biệt là
lễ hội cổ truyền.
Trong những năm gần đây, lễ hội cổ truyền nước ta được quan tâm nghiên cứu và
đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung trên
bình diện tổng thể khu vực vùng như Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ Nghiên cứu về lễ hội
cổ truyền ở phạm vi hẹp, thuộc địa bàn của một địa phương, một tỉnh vẫn còn chưa
nhiều. Mặt khác, do mỗi tiểu vùng văn hoá sắc thái riêng, cho nên khi nghiên cứu lễ hội
cổ truyền của người Việt, chúng ta không thể bỏ qua việc nghiên cứu ở từng địa phương
cụ thể. Chính vì vậy, nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở mỗi tiểu vùng văn hoá là những bước
đi cần thiết và quan trọng để kế thừa, phát huy di sản văn hoá dân tộc. Xuất phát từ
những đòi hỏi của công tác nghiên cứu văn hoá, chúng tôi chọn đề tài “Bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc”.
183 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6946 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóacủa lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóacủa lễ hội cổ truyền ở tỉnh
Vĩnh Phúc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lễ hội cổ truyền là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần, bắt nguồn và phát
triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp biến văn hoá của cộng
đồng. Lễ hội cổ truyền chứa đựng tất cả những khát vọng, những ước muốn tâm linh vừa
linh thiêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư trong những hoàn cảnh cụ thể. Đây là một
bộ phận quan trọng của văn hoá dân tộc, được lưu truyền qua hàng nghìn năm lịch sử.
Muốn nghiên cứu văn hoá truyền thống, lẽ đương nhiên là phải tìm đến lễ hội, đặc biệt là
lễ hội cổ truyền.
Trong những năm gần đây, lễ hội cổ truyền nước ta được quan tâm nghiên cứu và
đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung trên
bình diện tổng thể khu vực vùng như Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ…Nghiên cứu về lễ hội
cổ truyền ở phạm vi hẹp, thuộc địa bàn của một địa phương, một tỉnh vẫn còn chưa
nhiều. Mặt khác, do mỗi tiểu vùng văn hoá sắc thái riêng, cho nên khi nghiên cứu lễ hội
cổ truyền của người Việt, chúng ta không thể bỏ qua việc nghiên cứu ở từng địa phương
cụ thể. Chính vì vậy, nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở mỗi tiểu vùng văn hoá là những bước
đi cần thiết và quan trọng để kế thừa, phát huy di sản văn hoá dân tộc. Xuất phát từ
những đòi hỏi của công tác nghiên cứu văn hoá, chúng tôi chọn đề tài “Bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc”.
1.2. Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng châu thổ sông Hồng (khu vực chuyển tiếp giữa
miền núi và đồng bằng). Văn hoá dân gian Vĩnh Phúc vừa đậm nét cổ xưa nguyên thuỷ
của vùng văn hoá Hùng Vương, vừa có sắc thái văn hiến phức hợp của vùng văn hoá
Kinh Bắc- Thăng Long, với gần 500 làng cổ còn lưu giữ một kho tàng văn hoá phi vật thể
phong phú. Trong đó có khoảng 520 lễ hội cổ truyền.
Trong nhiều năm gần đây, do nhiều nguyên nhân mà lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc
chưa được nhìn nhận đúng mức. Nhiều lễ hội bị mai một, sự độc đáo của lễ hội bị giảm
dần do xu thế bắt chước. Việc nghiên cứu Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội
cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc là hết sức cần thiết, tạo cơ sở cho công tác quản lý, hoạch
định chính sách và phát triển văn hoá, khai thác lễ hội như là nguồn lực di sản văn hoá để
phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
1.3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền thống của dân tộc là một hoạt động
đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Muốn bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cần phải nhận
diện, đánh giá mọi giá trị văn hoá cổ truyền mà lễ hội cổ truyền là một phương diện tiêu
biểu, tồn tại trong những tiểu vùng văn hoá cụ thể.
Quá trình nghiên cứu lễ hội ở Vĩnh Phúc sẽ vận dụng những quan điểm, phương
pháp nghiên cứu văn hoá học vào một trường hợp tiểu vùng văn hoá. Kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ góp phần bổ sung vào lĩnh vực học thuật, làm phong phú thêm kho tàng lý
luận văn hoá dân gian trên phương diện lễ hội cổ truyền, góp phần làm căn cứ khoa học
cho việc bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị văn hoá lễ hội của nhân dân Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc” nhằm vận dụng lý luận văn hoá và
các phương pháp nghiên cứu văn hoá vào thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số thành tố cơ bản của lễ hội cổ truyền, những giá trị văn hoá của lễ
hội cổ truyền.
- Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền.
Hướng tới một cái nhìn tổng thể về lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp, những kiến nghị mong muốn góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện
nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống lễ hội cổ truyền, trong đó tập trung làm rõ một số
lễ hội tiêu biểu đang diễn ra hiện nay trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tới lễ hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 1997 đến nay (mốc thời gian tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá để
nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp logic và lịch sử
+ Phương pháp liên ngành và chuyên ngành
+ Phương pháp điều tra xã hội học
+ Phương pháp phỏng vấn sâu
+ Phương pháp quan sát tham dự
+ Phương pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu sẵn có.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn có thể được xem như một công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về
lễ hội cổ truyền Vĩnh Phúc dưới góc độ văn hoá học và văn hoá dân gian; cung cấp cho
người đọc một hệ thống tư liệu phong phú, những giá trị đích thực về lễ hội cổ truyền ở
một địa phương cụ thể.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của
lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn sẽ góp phần xây dựng những định hướng cho
công tác chỉ đạo, quản lý lễ hội trên phạm vi của tỉnh; đồng thời đề xuất những giải pháp
cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội Vĩnh Phúc trong xu thế hội
nhập và phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
6. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
6.1.Tổng quan về lịch sử nghiên cứu lễ hội
Nghiên cứu về lễ hội không phải là một đề tài mới. Từ trước tới nay, đã có nhiều tác
giả nghiên cứu về vấn đề này. Những nghiên cứu của họ có thể tập hợp và phân loại theo
các nhóm sau:
- Nhóm công trình theo khuynh hướng miêu thuật từng lễ hội cụ thể:
Khuynh hướng sưu tầm nghiên cứu và miêu thuật từng lễ hội cụ thể là khuynh
hướng nổi trội nhất và có số lượng các công trình nhiều nhất như các công trình của các
tác giả Thạch Phương – Lê Trung Vũ, xuất bản năm 1995 có tựa đề: 60 lễ hội truyền
thống của người Việt Nam, (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội), Nguyễn Chí Bền (trưởng
ban tuyển chọn) xuất bản sách: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân
tộc và Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội, năm 2000), Trương Thìn (chủ biên) (1990)
ấn hành công trình: Hội hè Việt Nam (Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội).…. Theo nhóm các
tác giả tuyển chọn mà Nguyễn Chí Bền (là trưởng ban tuyển chọn) có khoảng 212 lễ hội
truyền thống được miêu thuật. Điều đáng quan tâm, các công trình trên chủ yếu dừng ở
việc miêu thuật và giải nghĩa các lễ hội chứ chưa nhấn mạnh vào những phân tích về mối
liên hệ của các lễ hội truyền thống với xã hội đương đại để có thể đưa ra những giải pháp
quản lý lễ hội.
- Nhóm công trình theo khuynh hướng nghiên cứu lễ hội ở bình diện tổng thể:
Khuynh hướng này chủ yếu nhìn nhận các vấn đề giá trị của lễ hội truyền thống theo
phương pháp định tính. Một trong những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là GS.
Đinh Gia Khánh trong các công trình ý nghĩa xã hội và văn hoá của hội lễ dân gian [7]
và Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam [11]; Tập thể các
tác giả của Viện Nghiên cứu Văn hoá (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) xuất bản công
trình Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ do PGS. Lê Trung Vũ (chủ biên) [41]….
Đáng lưu ý là năm 1993, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) tổ chức một hội thảo khoa học quốc tế về Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại [10]. Các nhà nghiên cứu tham gia hội thảo này đã đóng
góp nhiều ý kiến về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại, trong đó tác
giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng lễ hội không phải là một hiện tượng văn hoá bất biến mà nó
có sự đổi thay qua thời gian. Sự biến đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hoà của
nó đối với không gian và thời gian nhất định.
Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu không quan niệm lễ
hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lui vào huyền thoại, cô lập con người. Lễ hội cũng không
phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những cảm giác bồng bềnh ngây ngất
nhằm mục đích thoát ly cuộc sống. Trong lễ hội có sự tưởng tượng về sự hiện diện các thần
linh, các bí tích, nhưng không phải là để tấn công khoa học, để đi ngược chiều với những xã
hội mới như xã hội hậu công nghiệp.
Bên cạnh đó, Đinh Gia Khánh còn nhận xét về các mặt tích cực và tiêu cực của sự
phát triển trở lại của các lễ hội truyền thống. Tác giả nêu ra một số quan điểm phổ biến
khi đánh giá về sự trở lại của lễ hội như sau:
1/ Những ý kiến không tán thành với sự trở lại này vì cho rằng điều đó gây lãng phí
tiền của, thời gian.
2/ Những ý kiến cho rằng sự trở lại của lễ hội gây ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội
do nó liên quan đến các hiện tượng mê tín, dị đoan.
3/ Một số nhà nghiên cứu phê phán sự pha tạp giữa các yếu tố truyền thống và các
yếu tố hiện đại, coi đây là những sự lai căng, cần phải loại bỏ [10, tr.27-28].
Lê Hữu Tầng nêu ra những ảnh hưởng do sự bùng phát trở lại của lễ hội đối với
cuộc sống đương đại như nhu cầu lễ hội có thực sự là nhu cầu của đa số người dân hay
không, hay đó chỉ là nhu cầu do một số người muốn lợi dụng lễ hội để tiến hành các hoạt
động mê tín dị đoan, kinh doanh lễ hội để kiếm lời khai thác? Những biến đổi kinh tế - xã
hội sẽ tác động ra sao đối với nhu cầu hội lễ của người dân và ngược lại? [10, tr.21].
Đánh giá về vai trò của lễ hội đối với sự phát triển của xã hội, về những giá trị của lễ
hội truyền thống trong đời sống xã hội đương đại, GS. Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm,
trong xã hội đương đại, lễ hội truyền thống còn giữ năm giá trị cơ bản là:
1/ Giá trị cộng đồng, trong đó, lễ hội chính là “sự biểu dương sức mạnh của cộng
đồng” và là chất kết dính tạo nên “sự cố kết cộng đồng”. Lễ hội là môi trường góp phần quan
trọng tạo nên niềm “cộng mệnh” và “cộng cảm” của sức mạnh cộng đồng;
2/ Giá trị hướng về nguồn: Lễ hội có nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng.
Chính vì vậy, lễ hội thường gắn với hành hương - du lịch;
3/ Giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời
sống tâm linh của con người;
4/ Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hoá: Lễ hội do nhân dân tự tổ chức, làm tái
hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng, và cũng chính bản thân họ là những người hưởng
thụ các sinh hoạt văn hoá đó;
5/ Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc: Lễ hội truyền
thống là một bảo tàng sống về văn hoá dân tộc, nhờ đó, nền văn hoá ấy được hồi sinh, tái
tạo và truyền giao qua các thế hệ [30, tr.7- 8].
Một trong những công trình khác đánh giá tương đối đầy đủ về thực trạng lễ hội
truyền thống Việt Nam là đề tài khoa học cấp Bộ Văn hoá - Thông tin của các tác giả
Nguyễn Thu Linh và Phan Văn Tú về Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp
[16]. Nhóm nghiên cứu nhận xét:
Con người các thế hệ đã biết và hiểu về lịch sử - văn hoá dân tộc/địa phương
mình qua các trải nghiệm hội hè. Rất nhiều trò chơi, trò diễn dân gian có giá trị
tìm lại được môi trường phục sinh và tôn tạo. Hàng loạt các nghề thủ công - mỹ
nghệ, ẩm thực truyền thống… được củng cố và phát triển tạo ra những cơ hội
việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp phần bảo vệ di sản công nghệ
dân gian đang có cơ trở thành hàng hoá có giá trị trong xã hội hiện đại” [16,
tr.44]
Các tác giả nhấn mạnh rằng lễ hội đang trở thành một sản phẩm của ngành du lịch, có ý
nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế ở nhiều địa phương [16, tr.44].
6.2. Quá trình nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trong nhiều năm qua đã có đông đảo nhà nghiên cứu trung ương và địa phương
nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ về lễ hội và lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc. Song chủ yếu
những bài viết nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở giới thiệu hoặc miêu tả dưới góc độ đơn lẻ
từng lễ hội hoặc tập trung vào một số lễ hội tiêu biểu của tỉnh, như lễ hội Tây Thiên (huyện
Tam Đảo), lễ hội Đúc Bụt (huyện Tam Dương), lễ hội Cướp Phết, lễ hội Chọi Trâu (huyện
Lập Thạch), lễ hội Rước Nước (huyện Vĩnh Tường).
Gần đây (từ năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập đến nay), Sở Văn hoá Thể thao và
Du lịch Vĩnh Phúc đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến lễ hội cổ
truyền ở tỉnh và được xuất bản thành sách. Cụ thể như sau:
Công trình “Danh nhân Vĩnh Phúc” (1999) của Lê Kim Thuyên đã giới thiệu khá
đầy đủ về các danh nhân ở Vĩnh Phúc từ thời Hai Bà Trưng cho đến trước thời đại Hồ
Chí Minh, nơi thờ tự và tổ chức lễ hội của các danh nhân (nếu có).
Tại công trình “Địa chí Vĩnh Phúc (sơ thảo)” (2000), Lê Kim Thuyên đã đề cập về
vùng đất và con người Vĩnh Phúc nói chung và khái lược lễ hội cổ truyền nói riêng.
Trong sách “Văn hoá các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” (2005), tác giả Lâm Quý giới thiệu
văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, tập trung ba dân tộc:
Dao, Cao Lan và Sán Dìu, trong đó có đề cập đến lễ hội của các dân tộc.
Lê Kim Thuyên còn nghiên cứu khái lược lễ hội Vĩnh Phúc dưới góc độ giới thiệu một lễ
hội cụ thể và thành tố của lễ hội, trong công trình “Lễ hội Vĩnh Phúc (2006)”.
Với cuốn sách “Văn hoá dân gian Vĩnh Phúc”(2007), Bùi Đằng Sinh, giới thiệu về
các loại hình văn hoá dân gian trên địa bàn Vĩnh Phúc, trong đó khái lược lễ hội cổ
truyền. Trong sách “Di tích- Danh thắng Vĩnh Phúc” (2007), Nguyễn Thị Diện giới thiệu
những di tích, danh thắng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó đề cập đến tổ
chức lễ hội tại di tích.
Công trình “Quốc Mẫu Tây Thiên Vĩnh Phúc” (2008), của tác giả Lê Kim Thuyên,
đã nghiên cứu về Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, nơi thờ tự và tổ chức lễ hội tại khu di tích-
danh thắng Tam Đảo. Trong 3 năm 2005- 2007, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Vĩnh
Phúc đã tiến hành tổng điều tra di sản văn hoá phi vật thể tên địa bàn toàn tỉnh, đã thống
kê các lễ hội trên địa bàn. Ngoài ra, sách “Địa chí văn hoá dân gian vùng đất Tổ” (tỉnh
Vĩnh Phú cũ) của Nguyễn Khắc Xương đã đề cập đến lễ hội cổ truyền, trong đó có lễ hội
Vĩnh Phúc dưới góc độ thống kê sơ bộ và phân loại lễ hội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo cứu, thống
kê giới thiệu, chưa đề cập lễ hội cổ truyền Vĩnh Phúc một cách có hệ thống và chưa đưa
ra những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong giai đoạn
hiện nay.
Đề tài luận văn "Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở tỉnh
Vĩnh Phúc" sẽ cố gắng nghiên cứu lễ hội cổ truyền Vĩnh Phúc, làm rõ những giá trị văn
hoá trong lễ hội, đồng thời đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hoá góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hoá dân tộc trên quê hương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI CỔ TRUYỀN
1.1. QUAN NIỆM VỀ LỄ HỘI VÀ LỄ HỘI CỔ TRUYỀN
1.1.1. Lễ hội
Việt Nam là đất nước có nền văn hoá lâu đời, nhiều dân tộc cùng sinh sống trên một
lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp phong tục tập quán măng bản sắc riêng của mỗi vùng
miền, dân tộc, tôn giáo... cho nền văn hoá của dân tộc. Trong đó lễ hội là yếu tố vừa đặc
trưng cho mỗi dân tộc, vừa làm cho văn hoá đất nước đặc sắc hơn.
Cho đến thời điểm hiện nay, khái niệm lễ hội vẫn còn nhiều cách hiểu và lý giải
khác nhau trong giới nghiên cứu. Tựu trung lại trên thực tế đã xuất hiện một số ý kiến sau
đây: có quan niệm chia tách lễ và hội thành hai thành tố khác nhau trong cấu trúc lễ hội
dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hoá dân gian có lễ mà không có hội hoặc ngược
lại. Theo Bùi Thiết thì “Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là các hoạt nghi lễ
đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hoá truyền thống” [26]; khác với
quan điểm trên, nhà nghiên cứu Thu Linh cho rằng:
Lễ (cuộc lễ) phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ trong các dịp
này trở thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến được quy định một cách
nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một “ cải diễn hoá” cùng với không khí trang
nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là điểm giao thoa giữa lễ với hội, và có lẽ cũng
vì vậy người ta thường nhập hai từ lễ hội [15, tr.27].
Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ thống đan
quện và giao thoa với nhau:
1- Hệ thống lễ: Bao gồm các nghi lễ của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo
cùng với các lễ vật được sử dụng làm đồ lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn
bị rất chu đáo và nghiêm túc. Thông qua các nghi lễ này con người được giao
cảm với thế giới siêu nhiên là các thần thánh (các nhiên thần và nhân thần),
do chính con người tưởng tượng ra và họ cầu mong các thần thánh bảo trợ và
có tác động tốt đẹp đến tương lai cuộc sống tốt đẹp của mình.
2- Hệ thống hội: Bao gồm các trò vui, trò diễn và các kiểu diễn xướng
dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước và ca múa dân
gian.v.v- chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước, song đôi khi chưa thể tách
ra khỏi việc thờ cúng [13, tr.5-9].
Giáo sư Đinh Gia Khánh quan niệm: “ đặc điểm cơ bản của văn hoá dân gian
(trong đó có lễ hội) là tính nguyên hợp... tức nói rằng quan hệ nghệ thuật ấy người ta
nhận thức hiện thực như một tổng thể chưa bị chia cắt” [9, tr.12].
Nghiên cứu "Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch", Dương Văn Sáu cho
rằng: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư
trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay
huyền thoại; đồng thời là dịp biểu hiện cách ứng xử văn hoá của con người với thiên nhiên-
thần thánh và con người với xã hội” [24, tr.35].
Tác giả Phạm Quang Nghị cắt nghĩa “ lễ hội là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng,
có tính phổ biến trong cộng đồng xã hội, có sức lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia. Là sản phẩm sáng tạo của các thế hệ tiền nhân để lại cho hôm nay, lễ hội chứa
đựng những mong ước thiết tha vừa thánh thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa
thế tục của bao thế hệ con người” [22, tr.96].
GS. Ngô Đức Thịnh quan niệm “ lễ hội cổ truyền là một hiện tượng văn hoá dân
gian tổng thể”, “ lễ hội là một hình thứ diễn xướng tâm linh" và diễn giải:
Tính tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia đôi” như người ta quan
niệm mà nó hình thành trên trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó
(thường là tôn thờ một vị thần linh - lịch sử hay là một thần linh nghề nghiệp nào
đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hoá phái sinh để tạo nên một
tổng thể lễ hội cho nên một trong lễ hội phần lễ là phần gốc rễ chủ đạo, phần hội
là phần phát sinh tích hợp [28, tr.37].
Như vậy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu trúc nên lễ
hội (phần lễ tức là nghi lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, linh thiêng;
phần hội tức là hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hoá nghệ thuật, đời thường). Tác giả
Trần Bình Minh cho rằng: “lễ và hội hoà quện, xoắn xít với nhau để cùng nhau biểu thị
một giá trị nào đó của một cộng đồng. Trong lễ cũng có hội và trong hội cũng có lễ”
[20, tr.120].
Nguyễn Tri Nguyên khẳng định:
Lễ hội là sự thể hiện, là sự phát lộ của ký ức văn hoá dân tộc. Giống như
gien di truyền, ký ức văn hoá chứa đựng hàm lượng thông tin các giá trị văn hoá
của quá khứ qua các truyền thống văn hoá dân tộc, tạo nên bản sắc và sự đa dạng
văn hoá, cũng thiết yếu đối với sự sống con người tựa như sự đa dạng sinh học
trong thế giới tự nhiên [23, tr.54- 56].
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau:
Lễ: là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người
đối với thần lin