Luận văn Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng

Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đột phá. Các doanh nghiệp kinh doanh được chủ động sản xuất, kinh doanh, và tự do cạnh tranh. Tuy nhiên để đảm bảo sự phát triển nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì chúng ta đã xây dựng một hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và là cơ sở để nhà nước tiến hành hoạt động quản lý. Sự phát triển kinh tế thể hiện qua hàng hoá, dịch vụ ngày càng được cung cấp đầy đủ, đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Đó là một thuận lợi rất lớn cho NTD có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp với nhu cầu của mình. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, NTD cũng gặp phải rất nhiều khó khăn việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng của mình. Bởi sự đa dạng của chủng loại hàng hoá, dịch vụ đòi hỏi NTD phải có những kiến thức tiêu dùng nhất định; ngoài ra một số loại hàng hoá, dịch vụ còn đòi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu mới có thể thẩm định về chất lượng của chúng và sự quản lý, kiểm định chặt chẽ của nhà nước. Điều này thì không phải mọi người tiêu dùng đều có thể đáp ứng, mặt khác điều kiện của nước ta - xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp khi bước sang phát triển theo nền kinh tế thị trường nên kỹ năng quản lý còn yếu kém. Lợi dụng điều đó, nhiều nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã chạy theo lợi nhuận mà không tuân thủ các quy định của nhà nước trong quá trình sản xuất và cung ứng ra thị trường để cung cấp cho người tiêu dùng những hàng hoá không đảm bảo chất lượng và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vì vậy nhu cầu cần có một hệ thống pháp lý để bảo vệ quyền lợi NTD nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại của NTD nói riêng là một nhu cầu cấp bách tồn tại song song vơi sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường là do tiêu dùng điều tiết, vì vậy tiêu dùng đắc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc hoặc định chính sách kinh tế Và NTD là đối tượng được mọi hoạt động hướng tới đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vai trò của NTD đã được cố Tổng thống Mỹ Giôn-Ken-nơ-đi đề cập tớ trong buổi phát biểu tại Thượng Nghị Viện Mỹ ngày 15/03/1967: “NTD theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Vậy mà họ là nhóm người quan trọng độc nhất mà quan điểm của họ thường không được chú ý tới”. Trong lời phát biểu đó không những vai trò của NTD được đề cập tới mà vấn đề quyền lợi của NTD chưa được quan tâm đúng mức cũng đã được đề cập tới. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam quyền và lợi ích cuả NTD không chỉ không được quan tâm đúng mức mà nó còn đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng ở mọi lúc mọi nơi, mọi lĩnh vực và đặc biệt là trong thực phẩm; vấn đề VSATTP đang là vấn đề gây bức xúc cho NTD và làm đau đầu các nhà quản lý. Vì lợi nhuận trước mắt nhiều cá nhân, tổ chức sản xuất kinh, doanh hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất, nhập khẩu buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và thực phẩm không an toàn xâm hại không nhỏ đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản của NTD. Trong khi sự quản lý của nhà nước còn nhiều yếu kém nên dẫn đến tình trạng dù đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng tình hình hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường và không chỉ có ở các cửa hàng nhỏ lẻ mà cả trong các siêu thị; số ca ngộ độc thực phẩm do sử dụng hàng hoá không đảm bảo chất lượng; các bệnh lây truyền do thực phẩm không an toàn ngày càng tăng . Vấn đề đặt ra là trong điều kiện như vậy phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ NTD. Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ NTD vẫn là pháp luật. Ý thức điều này Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật khá hoàn thiện để có thể bảo vệ được quyền lợi của NTD khi quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Theo quy định của pháp luật hiện hành khi quyền lợi của NTD dùng bị xâm hại do việc sử dụng hàng hoá dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh họ có thể yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá BTTH cho mình nếu hai bên không thể thoả thuận được cách bồi thường và mức bồi thường thì NTD có thể khởi kiện ra toà. Và khi quyền và lợi ích của NTD bị xâm phạm việc BTTH có thể giải quyết theo quy định pháp luật theo hợp đồng hoặc theo quy định ngoài hợp đồng. Tuy nhiên nếu như các quy định của pháp luật về BTTH cho NTD do vi phạm quyền lợi của họ trong hợp đồng khá chi tiết và cụ thể thì quy định về BTTH cho NTD ngoài hợp lại rất chung chung và còn nhiều bất cập. Hơn nữa việc BTTH cho NTD từ phía các doanh nghiệp là rất hạn chế, một số các doanh nghiệp vì uy tín họ đền bù nhưng phần lớn thì lại chây lì khi BTTH cho NTD. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu là: "BTTH do vi phạm quyền lợi NTD". Qua đó muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ NTD.

doc83 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đột phá. Các doanh nghiệp kinh doanh được chủ động sản xuất, kinh doanh, và tự do cạnh tranh. Tuy nhiên để đảm bảo sự phát triển nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì chúng ta đã xây dựng một hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và là cơ sở để nhà nước tiến hành hoạt động quản lý. Sự phát triển kinh tế thể hiện qua hàng hoá, dịch vụ ngày càng được cung cấp đầy đủ, đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Đó là một thuận lợi rất lớn cho NTD có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp với nhu cầu của mình. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, NTD cũng gặp phải rất nhiều khó khăn việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng của mình. Bởi sự đa dạng của chủng loại hàng hoá, dịch vụ đòi hỏi NTD phải có những kiến thức tiêu dùng nhất định; ngoài ra một số loại hàng hoá, dịch vụ còn đòi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu mới có thể thẩm định về chất lượng của chúng và sự quản lý, kiểm định chặt chẽ của nhà nước. Điều này thì không phải mọi người tiêu dùng đều có thể đáp ứng, mặt khác điều kiện của nước ta - xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp khi bước sang phát triển theo nền kinh tế thị trường nên kỹ năng quản lý còn yếu kém. Lợi dụng điều đó, nhiều nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã chạy theo lợi nhuận mà không tuân thủ các quy định của nhà nước trong quá trình sản xuất và cung ứng ra thị trường để cung cấp cho người tiêu dùng những hàng hoá không đảm bảo chất lượng…và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vì vậy nhu cầu cần có một hệ thống pháp lý để bảo vệ quyền lợi NTD nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại của NTD nói riêng là một nhu cầu cấp bách tồn tại song song vơi sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường là do tiêu dùng điều tiết, vì vậy tiêu dùng đắc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc hoặc định chính sách kinh tế…Và NTD là đối tượng được mọi hoạt động hướng tới đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vai trò của NTD đã được cố Tổng thống Mỹ Giôn-Ken-nơ-đi đề cập tớ trong buổi phát biểu tại Thượng Nghị Viện Mỹ ngày 15/03/1967: “NTD theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Vậy mà họ là nhóm người quan trọng độc nhất mà quan điểm của họ thường không được chú ý tới”. Trong lời phát biểu đó không những vai trò của NTD được đề cập tới mà vấn đề quyền lợi của NTD chưa được quan tâm đúng mức cũng đã được đề cập tới. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam quyền và lợi ích cuả NTD không chỉ không được quan tâm đúng mức mà nó còn đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng ở mọi lúc mọi nơi, mọi lĩnh vực và đặc biệt là trong thực phẩm; vấn đề VSATTP đang là vấn đề gây bức xúc cho NTD và làm đau đầu các nhà quản lý. Vì lợi nhuận trước mắt nhiều cá nhân, tổ chức sản xuất kinh, doanh hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất, nhập khẩu buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và thực phẩm không an toàn xâm hại không nhỏ đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản của NTD. Trong khi sự quản lý của nhà nước còn nhiều yếu kém nên dẫn đến tình trạng dù đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng tình hình hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường và không chỉ có ở các cửa hàng nhỏ lẻ mà cả trong các siêu thị; số ca ngộ độc thực phẩm do sử dụng hàng hoá không đảm bảo chất lượng; các bệnh lây truyền do thực phẩm không an toàn ngày càng tăng…. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện như vậy phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ NTD. Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ NTD vẫn là pháp luật. Ý thức điều này Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật khá hoàn thiện để có thể bảo vệ được quyền lợi của NTD khi quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Theo quy định của pháp luật hiện hành khi quyền lợi của NTD dùng bị xâm hại do việc sử dụng hàng hoá dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh họ có thể yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá BTTH cho mình nếu hai bên không thể thoả thuận được cách bồi thường và mức bồi thường thì NTD có thể khởi kiện ra toà. Và khi quyền và lợi ích của NTD bị xâm phạm việc BTTH có thể giải quyết theo quy định pháp luật theo hợp đồng hoặc theo quy định ngoài hợp đồng. Tuy nhiên nếu như các quy định của pháp luật về BTTH cho NTD do vi phạm quyền lợi của họ trong hợp đồng khá chi tiết và cụ thể thì quy định về BTTH cho NTD ngoài hợp lại rất chung chung và còn nhiều bất cập. Hơn nữa việc BTTH cho NTD từ phía các doanh nghiệp là rất hạn chế, một số các doanh nghiệp vì uy tín họ đền bù nhưng phần lớn thì lại chây lì khi BTTH cho NTD. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu là: "BTTH do vi phạm quyền lợi NTD". Qua đó muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ NTD. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD là một đề tài rộng, được nhiều ngành luật điều chỉnh như hình sự, hành chính, dân sự. Dưới góc độ luật hình sự các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm quyền lợi NTD gây ra các hậu qủa nghiêm trọng cho xã hội và phải chịu TNHS, còn ở góc độ luật hành chính các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm quyền lợi NTD đó đã làm trái các quy định gì của nhà nước về trật tự quản lý sản xuất, kinh doanh còn trong luật dân sự thì quan tâm tới TNDS của nhà sản xuất, kinh doanh đối với NTD đã bị thiệt hại do sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Vì vậy trong phạm vi có hạn của mình, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề chính liên quan đến vấn đề TNBTTH hại do vi phạm quyền lợi NTD như cơ sở lý luận của TNBTTH ngoài hợp đồng và cơ sở lý luận của TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD, quyền được BTTH và khởi kiện khi quyền và lợi ích của NTD bị xâm hại; trách nhiệm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh phải BTTH cho NTD khi vi phạm; Trình tự thủ tục thực hiện khiếu nại tố cáo. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu. Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD như khái niệm NTD, quyền của NTD; cơ sở để NTD buộc các doanh nghiệp BTTH (điều kiện phát sinh TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD); vai trò của cơ quan nhà nước trong quản lý bảo vệ NTD…… Đánh giá, phân tích hiện trạng pháp luật về BTTH do vi phạm quyền lưọi NTD trong giai đoạn hiện nay. Đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền lợi NTD bị vi phạm va số phương hướng cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm quyền lưọi NTD. 4.Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phương pháp so sánh, phân tích, tống hợp và thống kê. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. Về mặt lý luận đề tài nghiên cứu là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc bảo vệ NTD theo pháp luật hiện hành. Ngoài ra đề tài còn phục vụ trục tiếp cho quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về BTTH hại cho NTD. CHƯƠNG 1 NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BTTH DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG 1.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng, TNBTTH do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ( NTD) 1.1.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng “TNBTTH ngoài hợp đồng” là những chế định quan trọng của luật dân sự. Vấn đề này đã được các nhà luật học đề cập từ rất sớm để bảo vệ các quyền cơ bản của con người như: quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm,…quyền sở hữu tài sản. Vì vậy việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các khái niệm này từ đó hiểu và áp dụng thống nhất các khái niệm này có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. 1.1.1.Khái niệm thiệt hại Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia La Mã đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành phần. Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens-sự thiệt hại, sự mất mát của một bộ phận tài sản cụ thể. Thành phần thứ hai là Lucrum cessans-bỏ mất lợi tức, sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường ( ). Như vậy về cơ bản thì luật La Mã xác định thiệt hại là những tổn thất mất mát về tài sản đang có và sẽ có trong tương lai -thiệt hại mang tính tài sản. Chẳng hạn, theo luật gia Gaius ông đã đưa ra một ví dụ: một nô lệ thuộc một nhóm nhạc công nếu nô lệ này bị giết, thì khi xét BTTH phải lưu ý tới tình trạng cả nhóm nhạc công nô lệ bị giảm giá trị do nguời nô lệ đó bị giết((1) Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112: theo luật gia Gaius, quyển3, điều 212, Bộ Degest, quyển 9, m ục 2, trích 22, Đi ều 1 (2) Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112 ). Qua ví dụ trên ta thấy việc BTTH do hành vi trái pháp luật giết người nô lệ là một nhạc công trong một nhóm nhạc thì không những phải BTTH cho những mất mát trực tiếp của chủ nô lệ đó mà còn phải BTTH cho cả những mất mát gián tiếp-sự giảm sút giá trị của nhóm nô lệ nhạc công do nô lệ kia bị giết, những lợi ích sẽ có của người chủ nô lệ này nếu không có sự kiện đó xảy ra. Ngoài ra ta còn thấy chế định về thiệt hại của luật La Mã chủ yếu đề cập đến thiệt hại về vật chất-thiệt hại mang tính tài sản, bởi bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ mang tính tài sản. Ngày nay những tư tưởng pháp lý này của các luật gia La Mã đã được các nhà lập pháp kế thừa; chẳng hạn theo Điều 1149 của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng”(() Bộ luật Dân sự PHáp l999, Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội ). Ngoài ra các nhà lập pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại phi vật chất-thiệt hại về tinh thần. Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định tại Điều707 thì một người chịu TNBTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác. Hay Bộ luật Dân sự của Cộng hoà Liên Bang Đức có quy định: Đối với trường hợp do vi phạm của hoạt động tố tụng thì có quy định: trong trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cũng như trong trường hợp bị phạt tù giam thì người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi thường bằng tiền đối với những tài sản không mang tính tài sản. Người phụ nữ cũng có quyền yêu cầu tương tự nếu người này bì thiệt hại trong các trường hợp vi phạm đạo đức nghiêm trọng hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bằng âm mưu thâm độc, bị đe doạ hoặc lạm dụng mối quan hệ phụ thuộc. Theo nghĩa hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của”( Nguyễn Như Ý, Nxb.Thông tin Hà Nội, Đại Từ Điển Tiếng Việt, sđ d.tr 1570 ). Theo quan điểm pháp lý của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ”( Nxb. Công An Nhân Dân, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, 1999, sđ d.tr 118 ). Ở Việt Nam thì truớc khi có bộ luật Dân sự chính thức quy định về vấn đề này thì tồn tại hai quan điểm trái ngược về xác định thiệt hại phi tài sản-thiệt hại về tinh thần…Quan điểm thứ nhất cho rằng thiệt hại tinh thần không thể bồi thường vì tính mạng, tình cảm của con người là vô giá; do đó không có căn cứ để xác định mức thiệt hại. Quan điểm thứ hai cho rằng thiệt hại cả về vật chất và tinh thần đểu phải bồi thường vì mọi tính toán chỉ mang tính tương đối, mà bản chất của BTTH đều là nhằm khắc phục hậu quả của thiệt hại đã xảy ra. Quan điểm này đã được thừa nhận chính thức và được ghi nhận trong Thông tư của Toà án Nhân dân Tối cao số 173/1972/TT-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng (sau đây gọi tắt là TT số 173/1972/TT-UBTP) nhưng chưa được áp dụng thống nhất trong thời kỳ này. Đến khi nước ta chính thức có Bộ luật Dân sự 1995 thì thiệt hại được chính thức xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy định về TNBTTH tại Điều 310: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. 2- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. 3- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại. Đến Bộ Luật dân sự 2005 thì quy định này tiếp tục được kế thừa tại Điều 307. Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tin, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ. 1.1.2.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng Montesquieu, nhà tư tưởng lỗi lạc của thời kỳ khai sáng đã từng tuyên bố một chân lý: “Tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì mà không làm thiệt hại đến người khác”.Tư tưởng ấy đã được áp dụng vào hoạt động lập pháp của nhiều quốc gia sau này. Chẳng hạn Điều 4 của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Cộng hoà Pháp năm 1789 đã trích dẫn tư tưởng này: “Tự do bao gồm quyền làm mọi điều không gây hại cho người khác. Như vậy việc thực hành các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị giới hạn trong việc bảo đảm cho các thành viên của xã hội được hưởng các quyền đó. Các giới hạn này chỉ có thể do pháp luật quy định”( Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp ).Tư tưởng này khẳng định việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi người là “tự do”. Nhưng quyền tự do này chỉ có thể được đảm bảo thực hiện và được thực hiện khi từng thành viên trong xã hội thực hiện quyền của mình trên cơ sở đảm bảo cho các thành viên khác cũng có được quyền này có nghĩa là không có tự do tuyệt đối mà việc thực hiện quyền tự do của một thành viên bất kỳ trong xã hội phải bảo đảm không xâm phạm đến tự do của các thành viên xã hội còn lại hay tự do của họ có những giới hạn nhất định và giới hạn này phải do nhà nước-thông qua pháp luật quy định nhằm đảm bảo sức mạnh cưỡng chế với tất cả mọi người. Trên thực tế ta cũng thấy rằng, việc thực hiện các quyền của từng cá nhân này luôn chứa đựng những nguy cơ gây ảnh hưởng, tổn thất thậm chí còn có thể gây thiệt hại cho người khác. Vì vậy việc được hưởng các quyền tự do của con người là một nhu cầu khách quan thì cũng tồn tại song hành khả năng xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Vì vậy nó cần có một quy phạm mang tính cưỡng chế chung để điều hoà các mặt đối lập này; và pháp luật là nhân tố có khả năng và chức năng điều hoà mối quan hệ mâu thuẫn này. Để bảo vệ các quyền này pháp luật dân sự đã quy định các hành vi gây thiệt hại và TNBTTH để điều hoà hai mặt đối lập trong việc thực hiện quyền tự do của con người. Theo quan điểm của hầu hết các nhà luật gia thì “TNBTTH là trách nhiệm của người có hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại. TNBTTH bao gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần. TNBTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất bị giảm sút của người bị thiệt hại. TNBTTH về tinh thần là trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”( Nxb.CAND, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học,1999, sđ d.tr 128 ). Xem xét lịch sử hình thành và phát triển của chế định TNBTTH ta thấy khái niệm này đã xuất hiện từ rất sớm, tuy chưa đưa ra định nghĩa khái niệm này một cách cụ thể nhưng nó đã đưa ra những tiền đề để phát triển chế định này ngày nay. Thời La Mã cổ đại thì chế định này đầu tiên mang tính trả thù cá nhân, nhằm vào nhân thân người gây thiệt hại, do người bị thiệt hại hoặc người thân của người này áp dụng (chế độ phục cừu là nguyên tắc trả thù ngang bằng như máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, tính mạng trả tính mạng…)( Ts.Phùng Trung Tập, BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khoẻ và tính mạng, Nxb Hà Nội, sđ d.tr 11 ). Sau đó nó được chuyển dần sang hình thức phạt tiền, phạt bằng tài sản hay còn gọi là chế độ phục kim, có lợi cho người bị thiệt hại. Lúc đầu thì việc phạt tài sản do người bị thiệt hại quy định với tính chất là sự cưỡng chế cá nhân sau dần là hình thức phạt tiền BTTH do Pháp quan thay mặt Nhà nước áp dụng theo quy định và trình tự tố tụng nhất định( Luận Án Ts Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra sđ d.tr 17 ). Vào thế kỷ thứ V và thứ VI sau công nguyên, có một bộ luật rất điển hình là Bộ luật Xalic (Lox Salica) của quốc gia Frăng được ban hành và đầu thế kỷ thứ VI, quy định bảo vệ những gia súc lớn, người gây thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại cụ thể về tài sản như người ăn trộm chó săn bị phạt 15 xôlit ( một loại tiền của người Frăng thời bấy giờ ), ăn trộm bê sữa bị phạt 3 xôlit….Bộ luật này còn quy định TNBTTH về sức khoẻ, tính mạng, danh dự của người khác khi bị xâm phạm.Chẳng hạn, trong trường hợp giết một người Frăng tự do, họ hàng của anh ta chia nhau chịu một nửa vecghen (tiền phạt về tội giết người)( Luận án Ts Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền củ cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, sđ d.tr15 ). Như vậy ta thấy việc BTTH được quy định trong các bộ luật cổ là rất nghiêm khắc và thường mang tính trừng phạt nặng nề hơn là tính khắc phục hậu quả như luật ngày nay. Ở Việt Nam thời kỳ trước, trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, tính mạng cũng được pháp luật quy định từ rất sớm, như ở trong Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên những quy định về chế định BTTH cũng mang nặng tính trừng phạt; Điều 579 của Quốc triều hình luật có quy định: trong trường hợp người nhận giữ súc vật hoặc của cải khác mà đem dùng hay tiêu đi thì phải bồi thường số tài sản đã tổn thất và người gây hại còn phải phạt 80 trượng tính những của cải ấy trả cho người có nợ, còn thừa thì trả cho người mắc nợ.Hay Điều 134 bộ luật Gia Long cũng cấm các chủ nợ không được tự tiện bắt gia súc hay tài sản của con nợ và không được bắt thân nhân của con nợ làm nô tì. Người gây thiệt hại có thể phải nộp một số tiền phạt để tránh sự trả thù….( Xem. Quốc Triều Hình Luật ) Như vậy qua các chế định của pháp luật phong kiến ta thấy chua có sự phân định rõ rang giữa các chế định về trách nhiệm hình sự và và trách nhiệm dân sự, đồng thời thì trách nhiệm dân sự bị hình sự hoá và mang nặng tính trừng phạt. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế-xã hội ngày càng thay đổi và cách nhận thức của con người cũng thay đổi theo. Trong tiến trình phát triển đó thì luật pháp nước ta cũng không nằm ngoài ngoại lệ và một trong sô những sự thay đổi của luật pháp được thể hiện qua các chế định về TNBTTH hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với chế định đó trong pháp luật phong kiến. Trước khi có bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành, thì ở Việt Nam cũng đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn giải quyết những tranh chấp về BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra. Một trong số những văn bản đó là Thông tư số 173/1972/TT-UBTP. Thông tư này có nội dung và các huớng dẫn tương đối đầy đủ về TNBTTH ngoài hợp đồng. Khi bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì chế định BTTH được quy định cụ thể tại Điều 310 của bộ luật này. Chế định này tiếp tục được kế thừa và giữ nguyên giá trị khi được quy định lại tại Điều 307 bộ luật Dân sự 2005: Trách nhiệm BTTH 1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm t
Luận văn liên quan