Trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Việc mở 
cửa hội nhập về kinh tế -xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng 
tới. nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại 
ở đây những nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham nhũng và tụt hậu xa 
hơn về kinh tế. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc 
gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham 
nhũng và tụt hậu xa hưn về kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có 
ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một 
nguy cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài 
người. Nó xảy ra ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư 
tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội. 
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải 
và là bài toán khó cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình 
bắt kịp với đà phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1975, 
nước ta đi theo con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng nhìn th ấy mặt 
tiêu cực của nó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo 
kinh tế thị trường và có những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp 
được với đà phát triển của thế giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham 
nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tếđã trở thành vấn đề trung 
tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 51 trang
51 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3799 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Luận Văn 
"Các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn 
đề tụt hậu xa hơn về kinh tế" 
 2 
A. LỜI NÓI ĐẦU 
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc mở 
cửa hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng 
tới. nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại 
ở đây những nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham nhũng và tụt hậu xa 
hơn về kinh tế. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc 
gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham 
nhũng và tụt hậu xa hưn về kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có 
ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta. 
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một 
nguy cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài 
người. Nó xảy ra ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư 
tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội. 
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải 
và là bài toán khó cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình 
bắt kịp với đà phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1975, 
nước ta đi theo con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng nhìn thấy mặt 
tiêu cực của nó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo 
kinh tế thị trường và có những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp 
được với đà phát triển của thế giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn. 
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham 
nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế đã trở thành vấn đề trung 
tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay. 
 3 
MỤC LỤC 
A. LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................1 
B. NỘI DUNG .......................................................................................3 
CHƯƠNG I: THAM NHŨNG VÀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH 
TẾ ..........................................................................................................5 
1.1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ SỰ GIA TĂNG CỦA NẠN 
THAM NHŨNG ................................................................................5 
1.1.1. Tham nhũng .........................................................................5 
1.1.1.1. Khái niệm về tham nhũng ................................................5 
1.1.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng .........................................5 
1.1.1.3. Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng ..............................7 
1.1.2. Tụt hậu xa hơn về kinh tế, mặt yếu kém của sự phát triển
........................................................................................................8 
1.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA THAM 
NHŨNG Ở NƯỚC TA......................................................................10 
1.2.1. Thực trạng của tham nhũng..............................................10 
1.2.2. Những vấn đề tồn tại .........................................................13 
1.2.3. Tác hại của tham nhũng với phát triển kinh tế................15 
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ Ở 
NƯỚC TA ...........................................................................................17 
2.1. CÁC VẤN ĐỀ CỦA TỤT HẬU KINH TẾ .............................17 
2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ .18 
2.3. SỰ TỤT HẬU XA HƠN CỦA VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC 
TRÊN THẾ GIỚI.............................................................................22 
CHƯƠNG III: THAM NHŨNG VÀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH 
TẾ TRÊN THẾ GIỚI .........................................................................24 
3.1. TÌNH TRẠNG MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI..............24 
3.1.1. Tandania:.............................................................................24 
3.1.2. Uganda ................................................................................26 
3.1.3. Xiera Leôn...........................................................................28 
3.2. KHOẢNG CÁCH VỀ KINH TẾ GIỮA CÁC NƯỚC TRÊN 
THẾ GIỚI........................................................................................30 
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI, KHÓ KHĂN TRONG VIỆC 
RÚT NGẮN TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ ..........................35 
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ THAM NHŨNG 
VÀ TRÁNH TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ..............................38 
4.1. MỘT SỐ BÀI HỌC CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ...38 
4.1.1. Kinh nghiệm của Hồng Kông............................................38 
 4 
4.1.2 Kinh nghiệm của Singapo ..................................................39 
4.2. BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ PHÒNG 
CHỐNG THAM NHŨNG...............................................................41 
4.3. BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG TA TRONG VIỆC TRÁNH TỤT 
HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ .........................................................46 
C. KẾT LUẬN.....................................................................................49 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................50 
 5 
B. NỘI DUNG 
CHƯƠNG I: THAM NHŨNG VÀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH 
TẾ 
1.1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ SỰ GIA TĂNG CỦA NẠN 
THAM NHŨNG 
1.1.1. Tham nhũng 
1.1.1.1. Khái niệm về tham nhũng 
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình 
thành giai cấp và sự ra dời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn 
tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia không kể giàu nghèo, đang ở 
trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, 
văn hoá nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó 
len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết 
dân cư. Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả 
hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự 
phát triển đi lên của xã hội. Và có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể 
chế. Và nhìn từ góc độ pháp luật: Điều 1, pháp lệnh chống tham nhũng 
quy định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và 
lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố làm trái ý với 
pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước và cá 
nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. 
1.1.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng 
Những năm gần đây tình hình tham nhũng ở nước ta diễn biến hết 
sức phức tạp. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính 
sách pháp luật để đấu tranh kiên quyết với hiện tượng này, song tham 
 6 
nhũng cũng chưa có nhiều thuyên giảm. Để đấu tranh có hiệu quả với 
tình trạng này, một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là tìm 
được các nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng và tìm các biện pháp 
khắc phục, loại trừ những nguyên nhân đó. Trước hết phải khẳng định 
ràng, hệ thống pháp luật và cơ chế áp dụng nó có ảnh hưởng rất lớn đến 
tình trạng tham nhũng. Hay nói cách khác tình trạng tham nhũng ở một 
quốc gia tại một thời điểm xác định phản ánh mức độ hoàn thiện của hệ 
thống pháp luật cũng như thực trạng áp dụng pháp luật. Từ đó ta có thể 
nhìn ra các nguyên nhân sau: 
- Thứ nhất: Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do 
chế độ người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tham 
ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự 
lợi, ích kỷ hại dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người sinh ra". 
- Thứ hai: đó là do bản chất của cơ chế thị trường, của việc tự do 
hoá cạnh tranh tạo ra. 
- Thứ ba: Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không 
nhỏ cán bộ Đảng viên và sự yếu kém của công tác quản lý, giáo dục đào 
tạo cán bộ đảng viên của các tổ chức Nhà nước và Đảng. 
Trước đây, trong cơ chế cũ tập trung, quan liêu bao cấp đã có tham 
nhũng nhưng ở phạm vi hẹp hơn và mức độ thấp hơn. Từ khi chuyển 
sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu với bên ngoài, do tác động 
bởi yếu tố vật chất của cơ chế đó và do không chịu thường xuyên rèn 
luyện tu dưỡng nhiều cán bộ đảng viên, công chức đã sa ngã, thoái hoá, 
chạy theo lối sống chủ nghĩa cá nhân, bị lợi ích vật chất cám dỗ, sống 
đồi truỵ xa hoa, đã trượt vào cùng bùn tham nhũng, tội lỗi. Trong khi đó 
công tác quản lý, giáo dục kiểm tra cán bộ Đảng, cán bộ và công chức bị 
buông lỏng, yếu kém, không chuyển kịp trước tình hình mới. 
 7 
- Thứ tư: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng 
bộ, chưa thực sự chuyển mạnh sang cơ chế thị trường. 
Mặc dù nước ta đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng chúng 
ta chưa xây dựng được một hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế 
vĩ mô đồng bộ và hoàn chỉnh phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. 
- Thứ năm: Sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước có lúc, có 
nơi còn thiếu sâu sát, chặt chẽ, chưa quyết tâm cao, cơ chế tổ chức và 
giải pháp phòng ngừa tham nhũng chưa hiệu quả. 
Tuy Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, 
chống, tham nhũng nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu 
những giải pháp có hiệu quả, tổ chức chỉ đạo chưa chặt chẽ. 
Tóm lại, tình trạng tham nhũng phổ biến và nghiêm trọng ở nước 
ta xét về mặt chủ quan là hệ quả tổng hợp của 5 nguyên nhân trên, trong 
đó nguyên nhân về sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận 
không nhỏ cán bộ, đảng viên là nguyên nhân chủ yếu. 
1.1.1.3. Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng 
Ở vào thời điểm mở đầu của thiên niên kỷ mới, hầu hết tất cả các 
nước trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, phát triển hay đang phát 
triển phải đối diện một cách gay gắt với căn bệnh nan y nhức nhối, đó là 
nạn tham nhũng. Ở nhiều nước, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, 
không chỉ gây những hiệu quả to lớn về mặt kinh tế mà còn để lại những 
hậu quả xã hội nặng nề, làm băng hoại đến nền tảng đạo đức và tinh thần 
xã hội. Với quy mô rộng lớn, tính chất phức tạp và nhiều tác dụng tiêu 
cực mang tính đa chiều của nó, tham nhũng đang thực sự nổi lên như 
một đại dịch - một vấn đề mang tính toàn cầu xuyên thế kỷ. Bởi vậy 
cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi những nỗ lực to lớn và kiên quyết 
không chỉ trên phạm vi một quốc gia mà cả sự phối hợp trên quy mô 
 8 
toàn cầu. Theo đánh giá của ngân hàng phát triển châu Á (ADB), tham 
nhũng đang có xu hướng gia tăng tại nhiều châu lục, ở nhiều nước số 
thiệt hại do tham nhũng gây ra vượt quá tổng số nợ nước ngoài của họ. 
Nhiều nước Đông Nam Á vốn đã phải gồng mình vật lộn với cơn bão táp 
khủng hoảng tài chính - tiền tệ lại phải đương đầu với sự tàn phá không 
kém của tệ nạn tham nhũng, hối lộ và rửa tiền, khiến cho công cuộc phục 
hưng kinh tế đang trở ngại lại càng thêm phần gian nan. 
Đối với Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta luôn khẳng định chống 
tham nhũng một cách kiên quyết và triệt để. Nhằm làm trong sạch bộ 
máy đảng, chính quyền và đoàn thể. Báo cáo Chính trị Ban chấp hành 
TW Đảng khoá VIII, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng 
tiếp tục nhấn mạnh tham nhũng quan liêu là một trong những nguy cơ 
không thể xem thường. Với sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng hiện nay 
thì cuộc đấu tranh chống tham nhũng phải được tiếp cận như là cuộc đấu 
tranh loại trừ một quốc nạn nguy hiểm. Và trong sự nghiệp CNH, HĐH 
ở nước ta hiện nay, Đảng cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giải 
quyết vấn nạn này. Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN nêu rõ: "Hiện nay, cán 
bộ, đảng viên và nhân dân ta đang hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh 
chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng kéo dài gây 
bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của 
chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc 
đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ 
thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ TW đến cơ sở? 
1.1.2. Tụt hậu xa hơn về kinh tế, mặt yếu kém của sự phát triển 
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển 
sang nền kinh tế thị trường trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới 
đang trong quá trình cơ cấu lại một cách sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam 
 9 
nằm trong khu vực châu Á với nền văn minh Trung Hoa đặc sắc và có sự 
phát triển kinh tế năng động nhất trong thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có 
phát triển vượt lên được theo con đường phương Đông, con đường Việt 
Nam riên của mình hay không? 
So với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển của Việt Nam đang 
bị chậm vài thập kỷ, Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một 
trong những nước nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt hậu mạnh hơn 
nữa nếu không có một đường lối, chiến lược thông minh và có một quyết 
tâm cao. 
Đó là sự nhìn nhận với nền kinh tế Việt Nam. Còn nhìn vào sự tụt 
hậu xa hơn về kinh tế giữa các nước trên thế giới. Với xu thế càng ngày 
càng phát triển hiện nay thì khoảng cách giữa các nền kinh tế, các nước 
ngày càng được gia tăng. Song, có không ít những thăng trầm trong mỗi 
giai đoạn phát triển của lịch sử. Với điểm xuất phát rất cao, các cường 
quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản (các nước phát triển) rất thuận 
lợi. Trong quá trình phát triển kinh tế nhưng với điểm xuất phát thấp như 
Việt Nam, Lào, Campuchia và một số nước châu Phi, châu Mỹ (các 
nước chậm và kém phát triển) thì việc phát triển kinh tế là vấn đề rất nan 
giải. Trong những năm 90, thế giới đã chứng kiến sự thay đổi lớn lao 
chưa từng có kể từ đầu thế kỷ đến nay. Sự kiện nổi bật nhất là sự sụp đổ 
của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội Xô viết, kéo theo đó là sự sụp đổ 
của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tác động của những sự kiện đó đối 
với nền kinh tế thế giới rất to lớn, chúng đã, đang và sẽ diễn ra có thể 
cho đến nay chúng ta vẫn chưa lường trước được. 
Thực vậy, trong thập kỷ 90 chiều hướng giảm sút nhịp độ tăng 
kinh tế toàn cầu có thể tiếp tục. Bảng số liệu mức tăng tổng sản phẩm xã 
hội (% so với năm trước) sau đây cho ta rõ chiều hướng giảm sút đó. 
 10
Nước 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 
- Các nước XHCN trước 
đây 
2,9 2,0 4,1 1,3 -2,2 -9,7 -16,8 
- Các nước phát triển 2,7 3,3 4,4 3,3 2,9 1,6 1,0 
- Các nước đang phát triển 2,6 2,9 3,7 4,4 3,3 3,2 3,0 
Theo đánh giá của cơ qua dự báo quốc tế, trong những năm tới, 
mức tăng tổng thu nhập quốc dân của hầu hết các nước phát triển đều chỉ 
đạt 0,1% còn ở một số nước khác là âm còn mức tăng trưởng của các 
nước đang phát triển và kém phát triển còn tồi tệ hơn nữa. Từ đó cho 
thấy, ngay trong những giai đoạn suy sụp nhất của nền kinh tế thế giới, 
nhưng các nước phát triển vẫn giữ được mức tăng trưởng dương dù là 
nhỏ. Còn các nước khác là âm. Từ đó cho thấy khoảng cách (hay tụt hậu 
xa hơn về kinh tế) giữa các nước trên thế giới là không thể tránh khỏi. 
1.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA THAM 
NHŨNG Ở NƯỚC TA 
1.2.1. Thực trạng của tham nhũng 
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phòng, 
chống tham nhũng. Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao 
đạo đức cách mạng, thực hành "cần kiệm, liêm chính". Người đã chỉ rõ : 
Tham ô lãng phí, quan liêu là giặc "nội xâm". Trong thời kỳ xây dựng 
XNXH ở miền Bắc. Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động "3 xây, 3 
chống". Bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu 
cầu tiến hành cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý 
của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, 
làm lành manh hoá các quan hệ xã hội. Bộ chính trị đã có Nghị quyết số: 
 11
04/NQ/TW (12-9-1987) để chỉ đạo cuộc vận động này. Sau đó Ban bí 
thư đã có chỉ thị số: 64-CT và Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số: 
240/HĐBT (26-6-1990) về đấu tranh chống tham nhũng: Đại hội VIII 
trong Văn kiện Đại hội ghi rõ nội dung của nhiệm vụ đấu tranh chống 
tham nhũng. Tháng 2-1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã thông qua 
Pháp lệnh chống tham nhũng. Tháng 2-1999 Hội nghị TW 6 (lần 2) khoá 
VIII đã đề ra nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đại hội Đảng 
IX (tháng 4-2001) đã quyết định thực hiện nghị quyết về xây dựng 
Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập trung làm tốt công 
tác giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá 
nhân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tháng11-2001 Hội 
nghị trung ương lần thứ 4 (khoá IX) đã ra kết luận số: 04/KL-TW về tiếp 
tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy 
lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận của Trung ương đã xác định 
chống tham nhũng lãng phí là nhiệm vụ trước mắt, đồng thời cần nhận rõ 
đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt lâu dài, gắn liền với sự nghiệp 
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Trong quá trình thực hiện chủ trương chống tham nhũng của Đảng 
và Nhà nước, các tổ chức, chính quyền đoàn thể TW - địa phương đã 
bền bỉ, tích cực đấu tranh và đạt được một số kết quả như: Đã phát hiện 
và xử lý được nhiệm vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm khắc những kẻ 
đục khoét tài sản của Nhà nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà 
nước và trả lại cho dân một giá trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn 
thiện nhiều cơ chế chính sách quản lý có tác dụng hạn chế một phần tệ 
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Những việc đó đã góp phần vào sự 
nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy Nhà nước, đảm bảo 
an ninh chính trị xã hội đất nước. Mặc dù có những cố gắng quyết tâm 
 12
nhưng cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đạt kết quả còn thấp, 
hiệu quả rất hạn chế. Có nhiều lĩnh vực và thậm chí ngày càng nghiêm 
trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra rộng khắp trong bộ máy nhà nước, 
ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với quy mô ngày càng 
lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã có nhiều doanh 
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ nạn tham 
nhũng. Tệ nạn tham ô, ăn cắp của công, cố ý làm trái vì động cơ vụ lợi 
cá nhân, báo cáo sai sự thật để thanh quyết toán khống, bòn rút công quỹ 
trong các lĩnh vực để làm giàu bất chính, lạm dụng chức quyền để nhũng 
nhiễu… đã lan rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, 
thương binh xã hội. Tham nhũng đã xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo 
vệ, pháp luật, là những công cụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham 
nhũng và giữ gìn an ninh trật tự, xã hội. 
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao tham nhũng lại diễn ra phổ biến và 
nghiêm trọng như vậy? Mặc dù Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ 
thị, Nghị quyết, đã tiến hành nhiều cuộc vận động lớn, đã chỉ đạo xử lý 
nhiều vụ rất nghiêm khắc, mặc dù bị cả xã hội lên án, ai ai cũng căm 
ghét phẫn nộ, nhưng tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, ngăn chặn, thậm 
chí còn phát triển hơn, nghiêm trọng hơn. 
Trước câu hỏi này đặt ra rất nhiều vấn đề như cơ chế chính sách 
chưa hoàn thiện, còn sơ hở, về đời sống khó khăn, lương thấp, có người 
cho rằng vì phẩm chất đạo đức suy thoái, công tác giáo dục đào tạo cán 
bộ đảng viên kém, người thì cho rằng các nhà lãnh đạo không gương 
mẫu, chưa chống đều khắp từ trên xuống dưới, công tác điều tra còn bị 
coi nhẹ, kém hiệu quả, việc xử lý các vụ tham nhũng chưa nghiệm… 
Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và 
xử lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số tài sản thiệt hại trên 1,2 tỷ 
 13
đồng và 34 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 ta đã phát hiện 10 vụ tham 
nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của Chánh án Toà án Nhân 
dân tối cao trước Quốc hội, từ năm 1992 - 1997 toà án xét xử 3621 vụ 
tham nhũng với 6315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên bị 
tuyên phạt tử hình. Và đến nay vẫn liên tiếp xảy ra các vụ án lớn nghiêm 
trọng gây thiệt hại lớn đến tiền của của Nhà nước và nhân dân, gây mất 
ổn định về kinh tế xã hội. Tiêu biểu như việc phát hiện thu hồi về cho 
Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, hàng chục ngàn héc ta đất, cùng nhiều tài 
sản có giá trị khác, xử lý hàng chục nghìn cán bộ sai phạm, công chức 
sai phạm như EPCO - Minh Phụng; Tân Trường Sanh; Nhà máy dệt 
Nam Định. Gần đây tiếp tục làm rõ các vụ án lớn như: Công ty thương 
mại Đồng Tháp; Công ty lương thực an Giang; Công ty dược xuất nhập 
khẩu Cà Mau, vụ Năm Cam… cũng đã có tác dụng phòng ngừa, răn đe