1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn Đảng, Toàn dân là: “Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.” Nhiệm vụ nặng nề đó đặt lên vai Ngành Giáo dục vì làm được điều này Giáo dục và Đào tạo đã thực sự góp phần đắc lực cho sự nghiệp: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, xây dựng và thực hiện mục đích của Đảng và Nhà nước là: Làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển của xã hội.” Một đất nước muốn phát triển hay không người ta đánh giá và nhìn vào nền giáo dục của nước đó có bền vững và phát triển ổn định hay không.
Trong bài nói chuyện với lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I (ngày 12 tháng 6 năm 1956) Bác Hồ đã nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và rất vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không thể nói gì đến nền kinh tế, văn hóa.” [26]
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII có ghi: “ Để đảm bảo chất lượng của giáo dục và đào tạo phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo.’’ Có nghĩa là Người thầy giáo dù dạy ở bất cứ bậc học, ngành học nào đòi hỏi phải có trình độ, phải được đào tạo chuẩn cả về chuyên môn và nghiệp vụ, phải có tay nghề cao, phải năng động sáng tạo, không ngừng trau dồi và nâng cao tri thức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 khóa VIII cũng đã chỉ ra: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.”
Điều 70 Luật Giáo dục đã khẳng định: “.Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây”:
+ Có phẩm chất đạo đức tốt
+ Có tư tưởng tốt
+ Đạt trình độ chuẩn, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ.”
Đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên của các trường đại học trong công cuộc phát triển giáo dục của nước nhà. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển các trường đại học trong cả nước đã đào tạo được một số đông đảo các nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có tinh thần trách nhiệm và tận tụy với nghề, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, kịp thời phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đòi hỏi các tổ chức giáo dục, các trường đại học trong cả nước phải phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, bằng nhiều cách khác nhau một mặt phải tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, mặt khác phải khắc phục nhanh chóng và kiên quyết xóa bỏ những hạn chế, yếu kém tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhà quản lí giáo dục, thực hiện triệt để “Hai không trong giáo dục, Bửnh thành tích trong giáo dục” góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xây dựng định hướng phát triển nhiệm vụ cụ thể trọng tâm qua từng giai đoạn 2007 - 2010, thống nhất định hướng phát triển giai đoạn 2011 - 2020.
Trong thời đại ngày nay, giáo dục không phải chỉ là tích tụ tri thức mà còn làm thức tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn trong mỗi con người, đòi hỏi người thầy giáo không những phải có vốn kiến thức sâu, rộng, phong phú mà còn phải có phương pháp sư phạm, có nghệ thuật sư phạm, có kĩ năng sư phạm và có tay nghề sư phạm.
Như vậy nghề dạy học không chỉ là công việc lao động thuần túy mà đó là một nghề sáng tạo đòi hỏi yêu cầu cao, có tính nghệ thuật.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo.”
Khi nói đến vai trò quan trọng của nghiệp vụ sư phạm nguyên tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã nhấn mạnh: “Nghề thầy giáo là nghề có nghiệp vụ cao, tinh tế chứ không phải nghề phổ thông.’’
Đặc biệt càng ở các bậc học cao như: cao đẳng, đại học thì người giảng viên đại học lại càng cần được đào tạo công phu về cả chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm vì ở các cấp học này đòi hỏi người giảng viên với những yêu cầu cao hơn, chuyên nghiệp hơn.
Thực tế giáo dục ở Việt Nam hiện nay nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học thuộc thành phố Hà Nội nói riêng ngày càng phát triển đông đảo về số lượng và không ngừng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. (Số giảng viên tại các trường đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên chiếm 90%, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư ở các trường đại học chiếm một tỉ lệ khá cao).
Tuy nhiên, một bất cập đang tồn tại hiện nay là đội ngũ giáo viên trong các trường từ Mầm non, Tiểu học đến Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đều được đào tạo trong hệ thống các trường sư phạm từ Trung học sư phạm, Cao đẳng sư phạm, Đại học sư phạm. được trang bị đầy đủ kiến thức về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, các kĩ năng sư phạm. Còn ở các trường từ Trung học chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học số giảng viên đang trực tiếp giảng dạy không được đào tạo từ các trường sư phạm lại chiếm một tỉ lệ khá cao (47,7%). Đã có một thời gian dài chúng ta đã quá coi trọng trình độ, năng lực chuyên môn và cho rằng chỉ cần có đủ điều kiện về chuyên môn là có thể làm tốt công tác giảng dạy. Vì vậy, có nhiều giảng viên có trình độ chuyên môn tốt có học hàm học vị từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ, phó giáo sư, Giáo sư, Giáo sư Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân nhưng chưa được chú trọng về đào tạo nghiệp vụ sư phạm nên đã gặp nhiều khó khăn trong công tác giảng dạy. (Các môn như : Giao tiếp sư phạm đại học, Lý luận giáo dục đại học, Lý luận dạy học đại học, Tâm lý học đại học, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục đại học, Tổ chức quản lí giáo dục đại học, Kiểm định và Đánh giá kết quả giáo dục đại học).
Đứng trước thực trạng đó việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên và giảng viên các trường cao đẳng, đại học trong cả nước nói chung và các trường Cao đẳng, Đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng là một trong những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy đại học của đội ngũ giảng viên nói riêng, và chất lượng Giáo dục - Đào tạo nói chung, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục từ nay đến 2010. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế”
Để làm luận văn tốt nghiệp cho mình với mong muốn sẽ góp thêm tiếng nói trong sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu đất nước trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi chúng ta đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn làm công tác quản lý việc tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho hàng ngàn lớp, lớp học viên của các trường đại học ngoài sư phạm của các tỉnh, thành phố khác nhau trong cả nước để giúp cho học viên chuyển đổi ngành, nghề công tác, tôi xin được đề xuất một số biện pháp tổ chức quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nói chung và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học trong những năm qua dù có những thành tựu, xong trong thực tế còn gặp không ít khó khăn và hạn chế trong công tác tổ chức bồi dưỡng. Nếu đề xuất được những biện pháp tổ chức, bao quát những vấn đề sư phạm và kịp thời cung cấp những điều kiện hỗ trợ thì góp phần nâng cao kết quả trong công tác bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ sư phạm
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng vấn đề tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.3. Đề xuất các giải pháp tổ chức tốt quá trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp như: phân tích; tổng hợp; khái quát hoá; . để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận là thu thập những căn cứ, những thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
Mục đích của việc sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận là nhằm tích lũy những tri thức lí luận về sự thích ứng nói chung với hoạt động bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nói riêng. Để từ đó xây dựng một số khái niệm công cụ, để giải quyết nhiệm vụ một đề tài, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề về thực tiễn . Bao gồm các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết: Thông qua phương pháp này nhằm phân tích lí thuyết thành từng bộ phận, từng mặt theo thời gian, không gian để dễ hiểu chúng một cách đầy đủ, toàn diện, nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả, từ đó chọn lọc những thông tin có ích về sự thích ứng nói chung và sự thích ứng trong bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nói riêng nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài. Đồng thời thông qua đó để tổng hợp lại, liên kết từng mặt của từng thông tin lí thuyết về sự thích ứng và thích ứng về rèn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm để có một tài liệu toàn diện, khái quát về các đối tượng cần được nghiên cứu.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết: Đây là hai phương pháp đi liền với nhau, nhằm sắp xếp tri thức khoa học thành một hệ thống tri thức khoa học chặt chẽ, logic theo từng đơn vị kiến thức và thành hệ thống nhằm tạo ra hệ thống lí luận sâu sắc toàn diện.Trên cơ sở các mô hình lí thuyết.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn là nhóm phương pháp nghiên cứu trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ rõ bản chất và các quy luật vận động của các đối tượng ấy
6.2.1. Phương pháp điều tra viết: Là phương pháp điều tra xã hội học mà quan trọng nhất là lập một hệ thống câu hỏi bằng văn bản, nhằm giúp người được hỏi trả lời câu hỏi theo quan niệm và nhận thức của mình.
Phương pháp điều tra viết là phương pháp nghiên cứu sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến với một hệ thống câu hỏi đã được soạn sẵn nhằm thu thập những thông tin cần thiết về những vấn đề cần được nghiên cứu
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp phỏng vấn đối với các giảng viên không được đào tạo nghiệp vụ sư phạm để làm rõ những khó khăn vướng mắc có thể gặp phải trong quá trình gỉang dạy( Thông qua phiếu hỏi)
6.2.3. Phương pháp quan sát: Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin cần thiết về đối tượng. Trong quá trình làm đề tài chúng tôi đã tiến hành quan sát 200 giảng viên của các trường đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội về công tác tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, những buổi lên lớp trực tiếp giảng dạy, những buổi thi nghiệp vụ sư phạm (Trong tuần lễ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nhằm lấy thành tích chào mừng những ngày lễ lớn trong năm như: 20.11, 8.3, 26.3 thông qua phong trào đổi mới phương pháp dạy học do Công đoàn các trường đại học, Đoàn thanh niên . các trường phát động tổ chức).
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin thực tiễn về nhận thức thái độ và kết quả của công tác tổ chức, bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ
6.2.4. Ngoài ra sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục;
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. để làm sáng tỏ hơn những vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động là phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động (Những giờ lên lớp) của giảng viên để tìm ra những thông tin về đối tượng nghiên cứu mà không thể nhận thức nó một cách trực tiếp được.
Mục đích: Qua việc phân tích kết quả của công tác tổ chức bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong các hoạt động lên lớp của người giảng viên, trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, qua phân tích tình hình thực tiễn việc tích cực, chủ động tham gia vào quá trình bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của đội ngũ giảng viên, thái độ của họ, nhận thức của họ về tầm quan trọng, nội dung, ý nghĩa của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trong quá trình giảng dạy tại các trường đại học, những thuận lợi, khó khăn, nguyện vọng, ý kiến đề nghị với Ban giám hiệu, với Bộ giáo dục và Đào tạo và các ban ngành có liên quan.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao của một số chuyên ngành, nhằm xem xét, nhận định bản chất của sự kiện khoa học hay thực tiễn để tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho các sự kiện đó, hay phân tích đánh giá một sản phẩm khoa học.
Sử dụng các công thức toán học thống kê SPSS để xử lý các số liệu đã thu được (Thông qua phiếu hỏi)
Ngoài ra trong quá trình làm thực nghiệm chúng tôi còn sư dụng phương pháp trò chuyện để hỗ trợ cho phương pháp điều tra, phương pháp quan sát và phân tích sản phẩm của hoạt động nghiệp vụ sư phạm, đồng thời thông qua đó cũng để kiểm chứng lại độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu, việc trao đổi với ban Giám hiệu các trường đại học, với đội ngũ giảng viên về tính cấp thiết của công tác tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên các trường cao đẳng, đại học nói riêng, về nội dung, hình thức và kinh nghiệm của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Đặc biệt trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, ngoài ra chúng tôi cũng tranh thủ lấy ý kiến đóng góp của đội ngũ lãnh đạo các trường về chất lượng, ý thức, sự ủng hộ quan tâm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đối với tính cấp thiết của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên các trường đại học nói riêng. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
7. Phạm vi nghiên cứu
200 giảng viên các trường Đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội: Đại học Thương mại, Đại học Ngoại Thương, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu và phần kết quả nghiên cứu chủ yếu gồm có 83 trang
Phần kết quả nghiên cứu chủ yếu có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu có 23 trang
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức, bồi dưỡng, đào tạo Nghiệp vụ Sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội gồm có 24 trang
Chương 3: Đề xuất các giải pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội có 24 trang
Sau mỗi chương là phần kết luận của chương.
Cuối luận văn có kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo
88 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4884 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn Đảng, Toàn dân là: “Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.” Nhiệm vụ nặng nề đó đặt lên vai Ngành Giáo dục vì làm được điều này Giáo dục và Đào tạo đã thực sự góp phần đắc lực cho sự nghiệp: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, xây dựng và thực hiện mục đích của Đảng và Nhà nước là: Làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển của xã hội.” Một đất nước muốn phát triển hay không người ta đánh giá và nhìn vào nền giáo dục của nước đó có bền vững và phát triển ổn định hay không.
Trong bài nói chuyện với lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I (ngày 12 tháng 6 năm 1956) Bác Hồ đã nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và rất vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không thể nói gì đến nền kinh tế, văn hóa.” [26]
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII có ghi: “ Để đảm bảo chất lượng của giáo dục và đào tạo phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo.’’ Có nghĩa là Người thầy giáo dù dạy ở bất cứ bậc học, ngành học nào đòi hỏi phải có trình độ, phải được đào tạo chuẩn cả về chuyên môn và nghiệp vụ, phải có tay nghề cao, phải năng động sáng tạo, không ngừng trau dồi và nâng cao tri thức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 khóa VIII cũng đã chỉ ra: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.”
Điều 70 Luật Giáo dục đã khẳng định: “...Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây”:
+ Có phẩm chất đạo đức tốt
+ Có tư tưởng tốt
+ Đạt trình độ chuẩn, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ...”
Đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên của các trường đại học trong công cuộc phát triển giáo dục của nước nhà. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển các trường đại học trong cả nước đã đào tạo được một số đông đảo các nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có tinh thần trách nhiệm và tận tụy với nghề, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, kịp thời phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đòi hỏi các tổ chức giáo dục, các trường đại học trong cả nước phải phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, bằng nhiều cách khác nhau một mặt phải tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, mặt khác phải khắc phục nhanh chóng và kiên quyết xóa bỏ những hạn chế, yếu kém tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhà quản lí giáo dục, thực hiện triệt để “Hai không trong giáo dục, Bửnh thành tích trong giáo dục” góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xây dựng định hướng phát triển nhiệm vụ cụ thể trọng tâm qua từng giai đoạn 2007 - 2010, thống nhất định hướng phát triển giai đoạn 2011 - 2020.
Trong thời đại ngày nay, giáo dục không phải chỉ là tích tụ tri thức mà còn làm thức tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn trong mỗi con người, đòi hỏi người thầy giáo không những phải có vốn kiến thức sâu, rộng, phong phú mà còn phải có phương pháp sư phạm, có nghệ thuật sư phạm, có kĩ năng sư phạm và có tay nghề sư phạm.
Như vậy nghề dạy học không chỉ là công việc lao động thuần túy mà đó là một nghề sáng tạo đòi hỏi yêu cầu cao, có tính nghệ thuật.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo.”
Khi nói đến vai trò quan trọng của nghiệp vụ sư phạm nguyên tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã nhấn mạnh: “Nghề thầy giáo là nghề có nghiệp vụ cao, tinh tế chứ không phải nghề phổ thông.’’
Đặc biệt càng ở các bậc học cao như: cao đẳng, đại học thì người giảng viên đại học lại càng cần được đào tạo công phu về cả chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm vì ở các cấp học này đòi hỏi người giảng viên với những yêu cầu cao hơn, chuyên nghiệp hơn.
Thực tế giáo dục ở Việt Nam hiện nay nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học thuộc thành phố Hà Nội nói riêng ngày càng phát triển đông đảo về số lượng và không ngừng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. (Số giảng viên tại các trường đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên chiếm 90%, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư ở các trường đại học chiếm một tỉ lệ khá cao).
Tuy nhiên, một bất cập đang tồn tại hiện nay là đội ngũ giáo viên trong các trường từ Mầm non, Tiểu học đến Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đều được đào tạo trong hệ thống các trường sư phạm từ Trung học sư phạm, Cao đẳng sư phạm, Đại học sư phạm... được trang bị đầy đủ kiến thức về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, các kĩ năng sư phạm. Còn ở các trường từ Trung học chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học số giảng viên đang trực tiếp giảng dạy không được đào tạo từ các trường sư phạm lại chiếm một tỉ lệ khá cao (47,7%). Đã có một thời gian dài chúng ta đã quá coi trọng trình độ, năng lực chuyên môn và cho rằng chỉ cần có đủ điều kiện về chuyên môn là có thể làm tốt công tác giảng dạy. Vì vậy, có nhiều giảng viên có trình độ chuyên môn tốt có học hàm học vị từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ, phó giáo sư, Giáo sư, Giáo sư Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân nhưng chưa được chú trọng về đào tạo nghiệp vụ sư phạm nên đã gặp nhiều khó khăn trong công tác giảng dạy. (Các môn như : Giao tiếp sư phạm đại học, Lý luận giáo dục đại học, Lý luận dạy học đại học, Tâm lý học đại học, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục đại học, Tổ chức quản lí giáo dục đại học, Kiểm định và Đánh giá kết quả giáo dục đại học).
Đứng trước thực trạng đó việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên và giảng viên các trường cao đẳng, đại học trong cả nước nói chung và các trường Cao đẳng, Đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng là một trong những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy đại học của đội ngũ giảng viên nói riêng, và chất lượng Giáo dục - Đào tạo nói chung, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục từ nay đến 2010. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế”
Để làm luận văn tốt nghiệp cho mình với mong muốn sẽ góp thêm tiếng nói trong sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu đất nước trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi chúng ta đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn làm công tác quản lý việc tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho hàng ngàn lớp, lớp học viên của các trường đại học ngoài sư phạm của các tỉnh, thành phố khác nhau trong cả nước để giúp cho học viên chuyển đổi ngành, nghề công tác, tôi xin được đề xuất một số biện pháp tổ chức quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nói chung và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học trong những năm qua dù có những thành tựu, xong trong thực tế còn gặp không ít khó khăn và hạn chế trong công tác tổ chức bồi dưỡng. Nếu đề xuất được những biện pháp tổ chức, bao quát những vấn đề sư phạm và kịp thời cung cấp những điều kiện hỗ trợ thì góp phần nâng cao kết quả trong công tác bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ sư phạm
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng vấn đề tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.3. Đề xuất các giải pháp tổ chức tốt quá trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp như: phân tích; tổng hợp; khái quát hoá;….. để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận là thu thập những căn cứ, những thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
Mục đích của việc sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận là nhằm tích lũy những tri thức lí luận về sự thích ứng nói chung với hoạt động bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nói riêng. Để từ đó xây dựng một số khái niệm công cụ, để giải quyết nhiệm vụ một đề tài, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề về thực tiễn . Bao gồm các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết: Thông qua phương pháp này nhằm phân tích lí thuyết thành từng bộ phận, từng mặt theo thời gian, không gian để dễ hiểu chúng một cách đầy đủ, toàn diện, nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả, từ đó chọn lọc những thông tin có ích về sự thích ứng nói chung và sự thích ứng trong bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nói riêng nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài. Đồng thời thông qua đó để tổng hợp lại, liên kết từng mặt của từng thông tin lí thuyết về sự thích ứng và thích ứng về rèn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm để có một tài liệu toàn diện, khái quát về các đối tượng cần được nghiên cứu.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết: Đây là hai phương pháp đi liền với nhau, nhằm sắp xếp tri thức khoa học thành một hệ thống tri thức khoa học chặt chẽ, logic theo từng đơn vị kiến thức và thành hệ thống nhằm tạo ra hệ thống lí luận sâu sắc toàn diện....Trên cơ sở các mô hình lí thuyết.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn là nhóm phương pháp nghiên cứu trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ rõ bản chất và các quy luật vận động của các đối tượng ấy
6.2.1. Phương pháp điều tra viết: Là phương pháp điều tra xã hội học mà quan trọng nhất là lập một hệ thống câu hỏi bằng văn bản, nhằm giúp người được hỏi trả lời câu hỏi theo quan niệm và nhận thức của mình.
Phương pháp điều tra viết là phương pháp nghiên cứu sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến với một hệ thống câu hỏi đã được soạn sẵn nhằm thu thập những thông tin cần thiết về những vấn đề cần được nghiên cứu
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp phỏng vấn đối với các giảng viên không được đào tạo nghiệp vụ sư phạm để làm rõ những khó khăn vướng mắc có thể gặp phải trong quá trình gỉang dạy( Thông qua phiếu hỏi)
6.2.3. Phương pháp quan sát: Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin cần thiết về đối tượng. Trong quá trình làm đề tài chúng tôi đã tiến hành quan sát 200 giảng viên của các trường đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội về công tác tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, những buổi lên lớp trực tiếp giảng dạy, những buổi thi nghiệp vụ sư phạm (Trong tuần lễ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nhằm lấy thành tích chào mừng những ngày lễ lớn trong năm như: 20.11, 8.3, 26.3 thông qua phong trào đổi mới phương pháp dạy học do Công đoàn các trường đại học, Đoàn thanh niên…. các trường phát động tổ chức).
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin thực tiễn về nhận thức thái độ và kết quả của công tác tổ chức, bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ
6.2.4. Ngoài ra sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục;
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia... để làm sáng tỏ hơn những vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động là phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động (Những giờ lên lớp) của giảng viên để tìm ra những thông tin về đối tượng nghiên cứu mà không thể nhận thức nó một cách trực tiếp được.
Mục đích: Qua việc phân tích kết quả của công tác tổ chức bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong các hoạt động lên lớp của người giảng viên, trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, qua phân tích tình hình thực tiễn việc tích cực, chủ động tham gia vào quá trình bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của đội ngũ giảng viên, thái độ của họ, nhận thức của họ về tầm quan trọng, nội dung, ý nghĩa của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trong quá trình giảng dạy tại các trường đại học, những thuận lợi, khó khăn, nguyện vọng, ý kiến đề nghị với Ban giám hiệu, với Bộ giáo dục và Đào tạo và các ban ngành có liên quan.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao của một số chuyên ngành, nhằm xem xét, nhận định bản chất của sự kiện khoa học hay thực tiễn để tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho các sự kiện đó, hay phân tích đánh giá một sản phẩm khoa học.
Sử dụng các công thức toán học thống kê SPSS để xử lý các số liệu đã thu được (Thông qua phiếu hỏi)
Ngoài ra trong quá trình làm thực nghiệm chúng tôi còn sư dụng phương pháp trò chuyện để hỗ trợ cho phương pháp điều tra, phương pháp quan sát và phân tích sản phẩm của hoạt động nghiệp vụ sư phạm, đồng thời thông qua đó cũng để kiểm chứng lại độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu, việc trao đổi với ban Giám hiệu các trường đại học, với đội ngũ giảng viên về tính cấp thiết của công tác tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên các trường cao đẳng, đại học nói riêng, về nội dung, hình thức và kinh nghiệm của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Đặc biệt trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, ngoài ra chúng tôi cũng tranh thủ lấy ý kiến đóng góp của đội ngũ lãnh đạo các trường về chất lượng, ý thức, sự ủng hộ quan tâm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đối với tính cấp thiết của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên các trường đại học nói riêng. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
7. Phạm vi nghiên cứu
200 giảng viên các trường Đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội: Đại học Thương mại, Đại học Ngoại Thương, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu và phần kết quả nghiên cứu chủ yếu gồm có 83 trang
Phần kết quả nghiên cứu chủ yếu có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu có 23 trang
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức, bồi dưỡng, đào tạo Nghiệp vụ Sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội gồm có 24 trang
Chương 3: Đề xuất các giải pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội có 24 trang
Sau mỗi chương là phần kết luận của chương.
Cuối luận văn có kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo
Phần nội dung
Chương 1
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục ở bất kỳ xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào cũng phục vụ cho sự phát triển của xã hội đó. Vì vậy hoạt động giáo dục phải luôn luôn đổi mới không ngừng để góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ “Muốn tiến hành Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển Giáo dục - Đào tạo, phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của việc phát triển nhanh chóng, bền vững”.
Nghị quyết Trung ương II, tại Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ mục đích giáo dục của Việt Nam trong giai đoạn Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa hiện nay là: “Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha, gắn bó với lí tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện vào công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, biết giữ gìn và phát huy truyền thống các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu và bảo tồn những tri thức tinh hoa văn hoá nhân loại...”.
Để thực hiện tốt mục đích giáo dục mà văn kiện Đại hội Đảng đã đề ra, Ngành Giáo dục cần nỗ lực đầu tư hơn nữa về tất cả các mặt: Nhân lực, vật lực, Tài lực, huy động mọi tiềm năng sẵn có của xã hội cùng với nội lực của đội ngũ cán bộ, giáo viên nói chung và giảng viên các trường đại học nói riêng trong toàn Ngành Giáo dục.
Từ trước đến nay, nhất là kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên và sinh viên các trường thuộc khối sư phạm.
Ví dụ đề tài "Tổ chức và quản lý công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho giáo sinh trường THSP tỉnh Thanh Hoá" của Nguyễn Xuân Thái, Hà Nội, l999; Đề tài “Thực trạng và các biện pháp tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trường CĐSP Hải Phòng” của Hoàng Thị Lệ Khanh, Hà Nội, 2000; Đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên khoa Mầm non trường ĐHSP Hải Phòng”... Tuy nhiên, chưa có công trình, tài liệu nào nghiên cứu về việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học và giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
1.2. Lý luận chung về quản lý
1.2.1. Khái niệm về tổ chức quản lý
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng đã trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. ở mỗi góc độ tiếp cận và hoạt động, người ta có thể đưa ra một quan niệm về quản lý khác nhau.
Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [1].
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ phân công lao động của xã hội loài người nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng xuất cao hơn. Đó chính là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra, nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người.
Chẳng hạn:
- Theo quan điểm triết học, quản lý được xem như một quá trình liên kết thống nhất giữa chủ quan và khách quan để đạt mục tiêu đề ra.
- Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ - Frederic Wiliam Taylor (1856 - 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ