Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn
hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn
đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc
hiểu và áp dụng những quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di
chúc trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác
định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người
lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc.
Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc còn
có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của
một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về các điều kiện
có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005 là đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác
giả cũng muốn xác định ý nghĩa của chế định về quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo
di chúc nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy
định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa
hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật dân sự
104 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7314 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
theo quy định của Bộ luật dân sự"
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn
hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn
đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc
hiểu và áp dụng những quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di
chúc trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác
định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người
lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc.
Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc còn
có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của
một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về các điều kiện
có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005 là đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác
giả cũng muốn xác định ý nghĩa của chế định về quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo
di chúc nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy
định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa
hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc nói chung và các điều kiện
có hiệu lực của di chúc nói riêng đã được hầu hết các luật gia, các nhà lập pháp của các
nước trên thế giới nghiên cứu. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, Bộ luật dân sự của các nước
đều quy định về quyền định đoạt bằng di chúc của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển dịch tài
sản của mình cho người khác. Quyền định đoạt bằng di chúc là quyền dân sự được Nhà
nước bảo hộ, được ghi nhận trong Hiến pháp của Nhà nước ta và của các nước khác trên
thế giới.
ở nước ta, việc nghiên cứu về thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên cứu về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã có từ xa xưa. Chúng ta có thể kể đến nhiều
bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung Kỳ...
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các điều kiện có hiệu lực của di
chúc cũng đã được các nhà lập pháp nghiên cứu, nhưng những quy định đó còn đơn giản
và chưa đầy đủ. Trong số các loại văn bản này, đáng chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày
24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết
từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 10-9-1990. Chỉ
khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành thì vấn đề các điều kiện có hiệu lực của di
chúc mới được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Bộ luật này,
cũng còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi.
Về kết quả nghiên cứu của các luật gia: Tính đến thời điểm hiện nay cũng đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế, nhưng chỉ có một số ít công trình nghiên
cứu về thừa kế theo di chúc. Đáng chú ý trong các công trình nghiên cứu này, phải kể đến
đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" của tiến sĩ
Phùng Trung Tập; đề tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt
Nam" của tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; cuốn sách: "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân
sự Việt Nam" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện... Tuy nhiên, những công trình trên không
nghiên cứu riêng và có tính hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của
di chúc.
Nhận thức được vấn đề này, tác giả luận văn đã nghiên cứu trong một diện hẹp về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc để nhằm làm sáng tỏ việc xác định các điều kiện có
hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005. Với kết quả nghiên cứu của đề tài: "Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy
định của Bộ luật dân sự" sẽ giúp các cơ quan lập pháp ban hành các văn bản dưới luật để
hoàn thiện những quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc, đồng thời giúp các cơ
quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết những
tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nội dung của luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định của pháp luật
về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ tập trung nghiên cứu về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 và có sự đối chiếu với những quy định tương ứng trong Bộ
luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 1-
1-2006). Qua đó, tác giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật
dân sự được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Mặt
khác, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về các điều kiện có hiệu lực của di chúc ở các
nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và
tính hiện đại của pháp luật Việt Nam quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Trong quá trình nghiên cứu, một số các quy định của pháp luật có liên quan đến
nội dung của đề tài cũng được tìm hiểu như: Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự, giao dịch dân sự... theo pháp luật dân sự Việt Nam để có sự so sánh, đối chiếu, với
mục đích làm nổi bật những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc theo quy định của pháp luật ở Việt Nam.
- Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện từng điều kiện có hiệu
lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005,
hiệu quả điều chỉnh của những quy định pháp luật về các điều kiện đó. Luận văn tìm ra
những điểm phù hợp với đời sống xã hội và những điểm cần phải bổ sung các quy định về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện một bước
những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, giúp các nhà lập
pháp bổ sung những quy định còn thiếu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc để đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di
chúc nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như:
So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà
đề tài đã đặt ra.
Một số vụ án giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc cũng
được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân
cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Kết quả đạt được và những điểm mới của luận văn
- Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định phù hợp với quan hệ
thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về các điều kiện có hiệu lực của di chúc
trong Bộ luật dân sự năm 1995, những điểm cần hướng dẫn thực hiện theo Bộ luật dân sự
năm 2005.
- Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây:
+ Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp thạc sĩ luật
học.
+ Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực
của di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để nghiên cứu toàn diện và hệ
thống những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những quy định
pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995, phân tích
những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật
về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các quy định
pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời
có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản
hướng dẫn cần thiết.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 10 mục.
Chương 1
Khái quát chung về di chúc
1.1. Vài nét về thừa kế và quyền thừa kế
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã tồn tại như
một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù
chưa được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách
quan trong xã hội. ở thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do
những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi có tư hữu, nhà nước ra đời,
quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ. Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống
những quy phạm pháp luật về thừa kế khác nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất
giai cấp. Quyền thừa kế với tư cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà
nước nhất định.
Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong kiến và tư bản đảm bảo
sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch
tài sản bằng hình thức thừa kế, giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả
về chính trị và kinh tế. Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói
riêng, giai cấp bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc
nắm giữ các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có thể nhận
thấy rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp bóc lột mà nó chỉ duy
trì quyền lực đó mà thôi.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao động. Vì vậy,
pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao động, sản xuất, hưởng thành
quả lao động của mình và có quyền để lại thành quả lao động đó cho người khác theo di
chúc hoặc theo pháp luật khi người đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ
nghĩa đã động viên, khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội.
1.2. Di chúc và đặc điểm của di chúc
1.2.1. Di chúc
Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ luật dân sự
năm 2005: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết". Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của người có tài
sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau khi người lập di chúc
chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc
này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng
không phải tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật
là di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo quy định
tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005), di chúc được
thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép
người lập di chúc miệng trong những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654 Bộ
luật dân sự năm 1995 (Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc cũng
được pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ
viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Với những quy định trên, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy định cụ thể về
di chúc. Cùng chung sống trên đất nước ta gồm có nhiều dân tộc, nên pháp luật dân sự
cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận thức… tạo điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện
quyền lập di chúc, nếu cá nhân đó có năng lực lập di chúc theo luật định.
Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc bằng văn bản:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm
chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của
ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được
chứng nhận, chứng thực.
Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự
năm 1995, bao gồm những quyền sau:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các
quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng quá cả phần quyền
được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di sản thì người lập di chúc cũng có
sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ phân định một phần di sản cho người thừa kế,
còn một phần di sản di chúc không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả
phần tài sản của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong trường
hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc.
Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm tương tự như
pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện:
Điều 895 quy định: "Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di chúc định
đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc"
[5].
Điều 967 quy định: "Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế
hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình" [5].
Điều 969 quy định: "Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí
mật" [5].
Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng riêng,
nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp.
Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản còn có quy
định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật tương tự như di chúc được
lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân
tích kỹ hơn ở phần hình thức của di chúc).
1.2.2. Đặc điểm của di chúc
Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác ở những
điểm sau:
Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. ý
chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không phải
bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường
hợp lập di chúc chung vợ chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có
quyền định đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa
kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong
việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của
người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về
thừa kế theo di chúc.
ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc
toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao
nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc
người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích
với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc
không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của
các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi...,
thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực
khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp
đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa
người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp
người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản
theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật.
Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí chung
của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của từng người trong việc
định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng và vợ trùng nhau trong việc định
đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý
chí của một bên - bên chuyển giao tài sản.
ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao dịch dân
sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam mà pháp luật
dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được quy định rõ như: Bộ luật dân sự của
Cộng hòa Pháp, Đức…
Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm
chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết.
Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể
nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch
tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn
sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc, mà có
người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các con phải thương yêu
nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu...
Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646 Bộ luật dân
sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho
người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, nếu như một tài liệu nào đó của người
chết để lại mà không hàm chứa nội dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể
được coi là di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có
việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của
công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít những di
chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, dẫn tới di
chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần.
Đặc điểm thứ ba: Di chúc l