Văn xuôi thập niên 90 đã cho ra đời những cây bút thực sự tài năng. Sự
xuất hiện của các nhà văn Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Thảo,
Phạm Thị Hoài đặc biệt Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh đã
thổi vào dòng văn học này một luồng tư duy mới và họ đã nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trên văn đàn. Những nhà tiểu thuyết này đã thể hiện cách tiếp
cận mới về cuộc sống con người đầy những mâu thuẫn khó giải quyết, những
niềm vui, nỗi đau vĩnh hằng của nhân loại và con người mang trong mình những
xung đột nội tâm sâu sắc “hoặc to lớn hơn số phận của mình hoặc nhỏ bé hơn tính
người của mình”.
Cùng trưởng thành trong quân đội Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường
cũng như Bảo Ninh luôn ý thức về tác dụng của văn học đối với đời sống và con
người. Tự sâu thẳm trong nhu cầu nhận thức, ba nhà tiểu thuyết này đã tìm cách
để tiếp cận với cõi tận cùng trong tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Cuộc sống đã đổi thay đương nhiên hình ảnh con người cũng thay đổi, điều này
ai cũng có thể nói được. Vấn đề là ở chỗ anh phải nêu được cách nhìn nhận đánh
giá lý giải mới về con người thì điều đó mới làm cho văn học đổi thay căn bản.
Vậy, những người phụ nữ trong tiểu thuyết thập niên 90 này như thế nào ? Họ
luôn mong đợi khát khao, hy vọng và tìm kiếm cho dù có khi họ biết cái đã qua
không bao giờ trở lại cũng như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời.
Ngay trong cuộc sống đời thường,
152 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 9
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trong một vài tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 của hội nhà văn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------
Lê Thị Tâm Hoài
CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT VÀI TIỂU
THUYẾT ĐOẠT GIẢI NĂM 1991 CỦA HỘI NHÀ
VĂN VIỆT NAM.
Chuyên ngành: Lý Luận Văn Học
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SỸ: NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN XUẤT
Thành phố Hồ Chí Minh - 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề....................................................................................... 3
3. Phạm vi của đề tài ................................................................................ 14
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 15
5. Đóng góp của luận văn......................................................................... 16
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 16
Chương 1: BỐI CẢNH VĂN HOÁ LỊCH SỬ THẬP NIÊN 90 .................... 18
1.1Bối cảnh chung về văn hoá lịch sử thập niên 90................................. 18
1.2Bối cảnh văn hoá lịch sử trong tiểu thuyết thập niên 90..................... 21
Chương 2: CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA NHÀ VĂN
TRONG MỘT VÀI TIỂU THUYẾT ĐOẠT GIẢI NĂM 1991 (CỦA HỘI
NHÀ VĂN VIỆT NAM) ................................................................................. 25
2.1 Con người cá nhân tự nhiên................................................................ 26
2.1.1. Vẻ đẹp hình thức, vóc dáng ..................................................... 28
2.1.2. Vẻ đẹp đôi mắt ........................................................................ 29
2.1.3. Sự hài hoà giữa ngoại hình và nội tâm .................................... 31
2.1.4. Vẻ đẹp cơ thể ........................................................................... 32
2.1.5. Vẻ đẹp trong đời sống bản năng.............................................. 34
2.2 Con người cá nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách 43
2.2.1. Ý nghĩa của việc tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật về con người
cá nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách ................. 43
2.2.2 Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện giai cấp ........................ 44
2.2.3. Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện nhân cách.................... 53
2.2.3.1. Quan niệm về con người cá nhân nhân cách ................. 53
2.2.3.2. Con người tự ý thức chính là biểu hiện của con người
cá nhân nhân cách....................................................................... 55
Chương 3: THỜI GIAN – KHÔNG GIAN VÀ
GIỌNG ĐIỆU – NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT. ......................... 82
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật .................................................. 82
3.1.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................ 82
3.1.2. Không gian nghệ thuật............................................................. 93
3.2. Giọng điệu và ngôn từ nghệ thuật ..................................................... 107
3.2.1. Giọng điệu................................................................................ 107
3.2.1.1. Giọng triết lý tranh biện .................................................. 108
3.2.1.2. Giọng điệu thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình chia sẻ
112
3.2.1.3. Giọng hài hước hóm hỉnh, cười cợt nghiêm túc............... 115
3.2.2. Ngôn từ: cấu trúc ngôn từ ít nhiều mang tính đa thanh đối thoại...119
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................. 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 140
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Văn xuôi thập niên 90 đã cho ra đời những cây bút thực sự tài năng. Sự
xuất hiện của các nhà văn Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Thảo,
Phạm Thị Hoài đặc biệt Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh đã
thổi vào dòng văn học này một luồng tư duy mới và họ đã nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trên văn đàn. Những nhà tiểu thuyết này đã thể hiện cách tiếp
cận mới về cuộc sống con người đầy những mâu thuẫn khó giải quyết, những
niềm vui, nỗi đau vĩnh hằng của nhân loại và con người mang trong mình những
xung đột nội tâm sâu sắc “hoặc to lớn hơn số phận của mình hoặc nhỏ bé hơn tính
người của mình”.
Cùng trưởng thành trong quân đội Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường
cũng như Bảo Ninh luôn ý thức về tác dụng của văn học đối với đời sống và con
người. Tự sâu thẳm trong nhu cầu nhận thức, ba nhà tiểu thuyết này đã tìm cách
để tiếp cận với cõi tận cùng trong tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Cuộc sống đã đổi thay đương nhiên hình ảnh con người cũng thay đổi, điều này
ai cũng có thể nói được. Vấn đề là ở chỗ anh phải nêu được cách nhìn nhận đánh
giá lý giải mới về con người thì điều đó mới làm cho văn học đổi thay căn bản.
Vậy, những người phụ nữ trong tiểu thuyết thập niên 90 này như thế nào ? Họ
luôn mong đợi khát khao, hy vọng và tìm kiếm cho dù có khi họ biết cái đã qua
không bao giờ trở lại cũng như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời.
Ngay trong cuộc sống đời thường, những bà Nhân, bà Son, cô Hạnh, cô Đào
cũng phải sống trong “chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian” chỉ vì vòng
quay chóng mặt của những tham vọng và quyền lực mà người thân của họ đang
2
khao khát. Hay Phương cô sinh viên trường Bưởi với tình yêu Kiên rực cháy một
thời cuối cùng phải sống cuộc đời buông thả, thác loạn.
Mark đã từng nói một ý khá sâu sắc rằng sự giải phóng phụ nữ chính là
thước đo sự văn minh, tiến bộ của nhân loại. Vâng, số phận con người; mà cụ
thể là người phụ nữ với những buồn vui trăn trở trên con đường kiếm tìm hạnh
phúc trong tiểu thuyết thập niên này đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn
tượng. Vì thế khi nghiên cứu cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trên bình diện
thi pháp học hiện đại trong tiểu thuyết đã tạo ra bước đột phá mang ý nghĩa triết
– mỹ học, khoa học văn hoá về sự nhìn nhận mới mẻ đối với người phụ nữ trong
nghệ thuật và trong cuộc sống. Đó là cái nhìn nhiều chiều, phát hiện ra bình
diện mới về người phụ nữ. Sự tự ý thức, tự thức nhận, soát xét lại cuộc sống của
mình và môi trường xung quanh để không ngừng vươn tới bản ngã đích thực của
mình và bản chất phức điệu vốn có của cuộc sống.
Có lẽ chưa bao giờ số phận đời tư cá nhân, nhất là người phụ nữ lại được đề
cập một cách sâu sắc và thấm thía như trong ba tiểu thuyết (Mảnh đất lắm người
nhiều ma, Bến Không Chồng, Thân phận của tình yêu) này. Người phụ nữ với nhu
cầu làm vợ, làm mẹ, thậm chí mong muốn được hiến dâng và coi đó như niềm
hạnh phúc lớn lao. Xuất phát từ cách nhìn như vậy về người phụ nữ, ba nhà tiểu
thuyết đoạt giải năm 1991 (Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh )
đã thể hiện quan điểm nhân văn trong thái độ ủng hộ đối với những mối tình
ngang trái, trong những suy tư và hành động của nhân vật. Đặc biệt, khi cuộc
sống của họ được đặt vào một bối cảnh cụ thể (Làng Đông, xóm Giếng Chùa,
hay cuộc chiến tranh vệ quốc .) chịu sự tác động đa chiều của xã hội thì số
phận của họ lại được miêu tả đầy biến động và phức tạp.
Các tiểu thuyết đoạt giải của Hội nhà văn Việt Nam đã trở thành sự kiện
quan trọng, tạo nên những làn sóng tranh luận trong giới phê bình nghiên cứu. Ý
3
kiến khen nhiều mà chê cũng không ít. Song, sự đánh giá ấy càng làm cho đời
sống văn học thêm phong phú cũng như vấn đề được khai phá đến cùng, chứng
tỏ nét độc đáo của ba nhà tiểu thuyết trên hành trình nghệ thuật. Với cái nhìn
bao dung, cảm thông, chia sẻ, các nhà tiểu thuyết đã tạo được sự đồng cảm đối
với những người phụ nữ, họ không chỉ biết xót thương mà thực sự cùng tham gia
vào cuộc sống, giải quyết những vấn đề hết sức đời thường nên có sức cảm hoá
lớn. Hơn nữa, trên văn đàn thế giới những năm gần đây, các nhà văn nữ liên tiếp
nhận giải Nobel về văn học. Trong tiểu thuyết “Thầy giáo dạy dương cầm”, nữ
văn sĩ người Áo, bà Ilfriede Jelinek – người đoạt giải Nobel văn chương 2004 đã
nói rằng: “Phụ nữ không thể nở mặt với đời trong một thế giới mà hình ảnh của
họ bị đúc thành những khuôn mẫu”.
Với ý nghĩa trên, người viết luận văn này sẽ đi vào nghiên cứu cái nhìn
nghệ thuật về người phụ nữ của ba tiểu thuyết gia đã đoạt giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam 1991 một cách toàn diện bao quát hơn để bù lắp vào những
khoảng trống chưa được khai thác. Trên cơ sở đó, chỉ ra những bước đột phá
trong tư duy cũng như cách biểu hiện cái nhìn đa chiều của các nhà văn về hệ
thống nhân vật nữ. Đồng thời nêu được những đóng góp và hạn chế của họ trên
tiến trình hiện đại hoá văn học nói chung và tiểu thuyết Việt Nam thập niên 90
nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề:
Ắt hẳn chúng ta đã biết, các cây bút tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 đều
trưởng thành trong quân đội, và họ có cùng trang lứa với nhau: Nguyễn khắc
Trường (1946), Dương Hướng (1949), Bảo Ninh (1950).Với nguồn tư liệu là
vốn sống phong phú và sự từng trải, các nhà tiểu thuyết đoạt giải đã chứng tỏ sự
già dặn trong cách cảm, cách nghĩ của mình trước cuộc sống. Nếu “Mảnh đất
lắm người nhiều ma” và “Bến Không Chồng” có đề tài gần gũi nhau – cả hai tiểu
4
thuyết đều lấy bối cảnh là cuộc sống nông thôn ở làng Giếng Chùa và làng
Đông thì “Thân phận của tình yêu” của Bảo Ninh là đời sống của những trí thức
sau chiến tranh thông qua hai nhân vật Kiên – Phương trong nỗi ám ảnh, day dứt
khôn nguôi.
Như một quy luật tất yếu của đời sống văn học, bất kỳ một hiện tượng văn
học nào cũng dễ gây tranh luận mà các tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 chính là
một hiện tượng có sức cuốn hút mãnh liệt không chỉ những cây bút phê bình tên
tuổi như Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng
Mạnh, Đỗ Văn Khang, Hà Minh Đức, Ngô Vĩnh Bình, Trung Trung Đỉnh,
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hữu Sơn, Võ Gia Trị, Đỗ Minh Tuấn, Trần Quốc
Huấn, mà các nhà văn, nhà thơ như Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Đào Hiếu,
Phạm Hoa, Từ Quốc Hoài, Hoàng Hưng, Vũ Quần Phương cũng tốn không
biết bao nhiêu giấy mực. Trong số những ý kiến đánh giá ấy thì phần lớn là khen
và chỉ ra những thành công về nhiều phương diện cũng như một số tồn tại về
mặt đề tài, kết cấu, cách sử dụng từ ngữ, xây dựng nhân vật, không gian, thời
gian mà nếu các nhà tiểu thuyết lưu tâm hơn chút nữa thì tác phẩm sẽ tròn trịa
biết bao ?!
Mặc dù hiện tượng 3 tiểu thuyết đoạt giải 1991 được xem là một hiện tượng
văn học lớn nhưng chỉ thực sự gây tranh luận sôi nổi trong hai năm 1991, 1992,
rồi rải rác trong các năm 1995,1997 có thêm vài bài báo khác cũng là tìm thêm
những điểm độc đáo, mới mẻ của các tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 này. Vì
vậy, khi viết phần lịch sử vấn đề, chúng tôi không đi theo trình tự thời gian mà
chia ra thành một số vấn đề chẳng hạn như : đề tài, bố cục kết cấu, hình tượng
nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Rất mong được sự đồng
tình và chấp nhận về cách trình bày này.
5
Trong số những ý kiến đánh giá thì đa số gặp gỡ nhau ở những điểm chung
rằng: đây là những tiểu thuyết xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Hai cuốn
“Mảnh đất lắm người nhiều ma” và “Bến Không Chồng” hầu như không có ý
kiến trái ngược nào, riêng “Thân phận của tình yêu” nhiều ý kiến cũng gặp gỡ
nhau ở điểm đây thực sự là cuốn sách hay, nghệ thuật được trau chuốt hơn cả.
Nhưng Đỗ Văn Khang và Đỗ Minh Tuấn lại có ý kiến ngược lại.
Song, đề tài của người viết là “cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ ” vì
thế chúng tôi không đi sâu vào tranh luận vấn đề này. Có lẽ kỳ quan nào của tạo
hoá cũng có những thiếu xót nên những mặt hạn chế ấy chỉ làm cho cái nhìn của
chúng ta về cuộc sống thêm phong phú và đúng với quy luật vốn có của nó mà thôi.
2.1 Về đề tài, cuộc hội thảo trên báo Văn nghệ về hai tiểu thuyết “Mảnh
đất lắm người nhiều ma” và” Bến Không Chồng” các nhà nghiên cứu đều đưa
ra ý kiến khá thống nhất. Chẳng hạn Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Đã lâu lắm
rồi mới xuất hiện một tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam theo đúng cái mạch
của “Tắt đèn”, “Chí phèo”. Có thể nói cái làng Giếng Chùa trong “Mảnh đất lắm
người nhiều ma”, là sự cộng lại của hai cái làng Đông Xá của Ngô Tất Tố và Vũ
Đại của Nam cao “ [77;392]. Hay “Mảnh đất lắm người nhiều ma tạm coi là một
cái mốc trong đề tài nông thôn “ (Nguyễn Phan Hách) [77;396]. Đặc biệt, Thiếu
Mai đã có một ý kiến khá sâu sắc: “Trong năm 1990, sách viết về nông thôn
không ít trong đó có hai cuốn được dư luận chú ý và đánh giá cao nhất là “Bến
Không Chồng” của Dương Hướng”, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nguyễn
Khắc Trường. Ý kiến khá thống nhất chứ không mâu thuẫn trái chiều như với một
số tác phẩm khác ( )vấn đề dòng họ nông thôn đã được hai tác giả quan tâm,
khai thác và khai thác khá thành công “. [77;397]. Trong khi đó, “Thân phận của
tình yêu” của Bảo Ninh lại viết về đề tài tình yêu và nghệ thuật trước, trong và
sau chiến tranh thông qua những hồi ức đầy bất trắc của Kiên. Vâng, nếu chỉ
6
dừng lại ở đề tài chiến tranh thì có lẽ người đọc sẽ thấy toàn bom đạn dữ dội và
ác liệt, nhưng Bảo Ninh đã khéo léo lồng vào đó một đề tài khá thú vị là mối
tình đôi lứa “Kiên – Phương”. Nhờ mối tình ấy mà cuốn tiểu thuyết của anh đẹp
đẽ, lãng mạn, đầy chất thơ và cũng đầy bi kịch. Lấy bối cảnh nền là cuộc chiến
giải phóng miền Nam, Bảo Ninh đã chỉ ra Thân phận của tình yêu như thế nào ?
“Tình yêu giữa Kiên và Phương là một mối tình rực rỡ, tàn nhẫn và xót xa” (Đào
Hiếu), hay “Về những nghịch lý của tình yêu, một đề tài dễ sáo mòn – Bảo Ninh
khó mà đưa ra được điều gì thực sự mới mẻ và sâu sắc. Đóng góp của tác giả là
sáng tạo được một cặp trai gái thực sự là tình nhân: Kiên và Phương bất chấp
chiến tranh kinh khủøng (và đời thường trong hoà bình còn khinh khủng hơn), bất
chấp bạo tàn và ô nhục () Kiên và Phương là một cặp tình nhân lãng mạn (có
tình yêu nào mà không lãng mạn) [16].
2.2. Bố cục – kết cấu- cốt truyện:
Ở một khía cạnh khác, các nhà phê bình nghiên cứu quan tâm nữa là
phương diện bố cục, kết cấu và cốt truyện của các tiểu thuyết này. Bởi vì
thông thường trong tiểu thuyết: “Các nhân vật đều bị phân định bằng cốt truyện,
các quan hệ do chúng tạo ra bởi cốt truyện và do cốt truyện hoàn tất () cốt
truyện không chỉ là trang phục mà còn là thân xác, linh hồn của chúng. Và ngược
lại, xác và hồn của chúng chỉ có thể được bộc lộ và hoàn tất trong cốt truyện”.
(M.Bakhtin). Như vậy, tầm quan trọng của bố cục, kế cấu, cốt truyện đã quyết
định sự thành công của tác phẩm nói chung và tiểu thuyết nói riêng, về phương
kiện này, các cây bút tiểu thuyết đoạt giải 1991 đã có những đóng góp xuất sắc.
“Tuy nội dung vẫn chỉ là một luỹ tre làng, nhưng các cuốn sách vẫn đọc chạy
trang nhờ có một cốt truyện được dàn dựng cẩn thận” (Nguyễn Phan Hách). Còn
Từ Quốc Hoài, sau khi nêu ra những nhận xét khá tỉ mỉ về không gian, thời gian
hệ thống nhân vật, ông nhận xét rằng: “Về mặt kết cấu, tiểu thuyết (Mảnh đất
7
lắm người nhiều ma) có hơi bị “phình” ra ở phần sau, song do có được vốn sống
sâu sắc, cộng với thứ ngôn ngữ tươi rói chất dân gian, tác giả đã cột chặt người
đọc từ trang đầu đến trang cuối cùng “ [77;423]. Đến với “Thân phận của tình
yêu”, Đào Hiếu lại có những nhận xét khá lí thú: “ Bảo Ninh tạo một cấu trúc
truyện “không cần cấu trúc”. Với một nhà văn ít vốn sống thì việc phá bỏ cấu
trúc như thế đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nhưng với Bảo Ninh, kẻ thừa mứa vốn
sống chiến tranh thì chỉ cần cảm xúc. Chính cảm xúc đã thay anh dẫn dắt câu
chuyện, dẫn dắt kết cấu, bố cục và tạo được cho nó cái vẻ phi cấu trúc một cách
tương đối có nghề “ [19]. Còn nhà thơ Vũ Quần Phương khi trả lời phỏng vấn của
phóng viên báo Người Hà Nội đã đưa ra ý kiến mà người viết rất tâm đắc:
“Nghệ thuật viết ở cuối này (Thân phận của tình yêu) được chăm sóc hơn cả “. Và
ở “Bến Không Chồng”, chúng ta lại bắt gặp những đánh giá thật khách quan
“Bến Không Chồng” không có những tìm tòi mới lạ về nghệ thuật. Cách trần
thuật và miêu tả của Dương Hướng mộc mạc, tự nhiên có những chỗ còn đơn giản
và vụng nữa, sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết là ở bố cục chặt chẽ và cách viết
chân thực, vốn hiểu biết đời sống nông thôn và cách nhìn nhân đạo với số phận
con người” (Nguyễn Văn Long). Trong khi đó, Trung Trug Đỉnh thì nhìn nhận ở
khía cạnh khác cởi mở hơn:”Cuốn sách được kết cấu hồn nhiên, thuận chiều theo
thời gian theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó “[7].
Như vậy, trong ba tiểu thuyết đoạt giải, kết cấu của “Bến Không Chồng” có
lẽ là đơn giản hơn cả theo trật tự thời gian cũng như theo chiều dài của số phận
nhân vật từ thuở ấu thơ, đến trưởng thành với những thay đổi chóng mặt.
2.3. Vấn đề con người
Đặc biệt, văn học Việt Nam nhiều thập niên gần đây với sự chối bỏ mạnh
mẽ kiểu tư duy nghệ thuật khuôn sáo, hướng văn học đi vào con người cụ thể đã
mở đường cho sự giải phóng cá tính sáng tạo và góp phần quyết định trong việc
8
đem lại sinh khí cho văn học. Và đi từ nguyên lý “văn học là nhân học”, chúng
ta có thể công nhận rằng: giá trị của văn học là ở chỗ nó đã hiểu, cảm nhận và
chiếm lĩnh con người sâu sắc đến mức độ nào. Con ngườ