Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng h ạ lưu châu thổ sông Mê-Kông,
được xem là vùng trù phú nhấtkhông chỉ của Việt Nam mà còn của cả khu
vực Đông Nam Á. Nơi đây có đặc trưng của một châu thổ thuộc miền nhiệt
đới ẩm điển hình. Với hệ thống sông ngòi chằng chịt, ĐBSCL còn là vùng
nuôi thủy sản lớn nhất của cả nước, sản lượng nuôi trồng thủy sản chiếm
khoảng 65%, diện tích nuôi trồng khoảng 60% và giá trị xuất khẩu thủy sản
chiếm đến 51% của cả nước(Dương Nhựt Long, 2003). Nhiều mặt hàng thủy
sản của vùng không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất
khẩu cao. Trong đó, cá lóc (Channa striataBloch, 1973)là loài cá quen thuộc
của người dân, được nuôi phổ biến khắp các tỉnh ĐBSCL,không chỉ bởi đặc
điểm dễnuôi, chất lượngthịt ngon m à còn do chúng có giá trị dinh dưỡng cao
và phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Thời gian qua hiệu quả lợi nhuận thu
được từ hoạt động nuôi đối tượng này đã góp phần cải thiện và nâng cao điều
kiện sống của nhiều bà con nông thôn ĐBSCL.
59 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4132 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cấu trúc mô của các cơ quan trên cá lóc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN THỊ NGỌC HƯỜNG
CẤU TRÚC MÔ CỦA CÁC CƠ QUAN TRÊN CÁ LÓC
((Channa Sttrii atta Bll och,, 1793))
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
2008
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN THỊ NGỌC HƯỜNG
CẤU TRÚC MÔ CỦA CÁC CƠ QUAN TRÊN CÁ LÓC
((Channa Sttrii atta Bll och,, 1793))
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PHẠM THANH LIÊM
ĐẶNG THỤY MAI THY
2008
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
1
Chương I
GIỚI THIỆU
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng hạ lưu châu thổ sông Mê-Kông,
được xem là vùng trù phú nhất không chỉ của Việt Nam mà còn của cả khu
vực Đông Nam Á. Nơi đây có đặc trưng của một châu thổ thuộc miền nhiệt
đới ẩm điển hình. Với hệ thống sông ngòi chằng chịt, ĐBSCL còn là vùng
nuôi thủy sản lớn nhất của cả nước, sản lượng nuôi trồng thủy sản chiếm
khoảng 65%, diện tích nuôi trồng khoảng 60% và giá trị xuất khẩu thủy sản
chiếm đến 51% của cả nước (Dương Nhựt Long, 2003). Nhiều mặt hàng thủy
sản của vùng không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất
khẩu cao. Trong đó, cá lóc (Channa striata Bloch, 1973) là loài cá quen thuộc
của người dân, được nuôi phổ biến khắp các tỉnh ĐBSCL, không chỉ bởi đặc
điểm dễ nuôi, chất lượng thịt ngon mà còn do chúng có giá trị dinh dưỡng cao
và phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Thời gian qua hiệu quả lợi nhuận thu
được từ hoạt động nuôi đối tượng này đã góp phần cải thiện và nâng cao điều
kiện sống của nhiều bà con nông thôn ĐBSCL.
Trong những năm gần đây, nghề thủy sản ngày càng phát triển và người dân
không ngừng đưa mô hình nuôi thâm canh vào trong nuôi trông thủy sản để
tăng năng s ất. Vấn đề ày đã dẫn đến sự gia tăng khả năng ô nhiễm môi
trường, cũng như những hiện tượng bệnh trên các đối tượng nuôi…Trước tình
hình đó, việc nghiên cứu cấu trúc vi thể và chức năng hoạt động của các cơ
quan trên cá khỏe cũng như những thay đổi cấu trúc của cá khi nhiễm bệnh là
hết sức cần thiết. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều
phương pháp đã được áp dụng để hỗ trợ cho việc nghiên cứu cá cũng như các
đối tượng thủy sản khác, và mô học được xem là một trong những phương
pháp hiệu quả. Phương pháp mô học đã và đang được các nhà khoa học vận
dụng vào nghiên cứu của họ trên nhiều động vật khác nhau. Nó được xem như
là khoa học nghiên cứu sự phát triển, cấu tạo và hoạt động của các mô, cơ
quan của cơ thể. Bằng phương pháp này, ta có thể quan sát được cấu trúc vi
thể của các cơ quan trong cơ thể của cá nói riêng ở từng giai đoạn phát triển
của chúng, cũng như chẩn đoán và phòng bệnh trên các động vật thủy sản.
Vì những lý do trên, đề tài “Cấu trúc mô của các cơ quan trên cá lóc (Channa
striata Bloch, 1973)” được thực hiện nhằm mục đích: thành lập một bộ sưu tập
cấu trúc vi thể của các cơ quan trên cá lóc khỏe tạo tiền đề cho những nghiên
cứu tiếp theo.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2
Nội dung đề tài
Dùng phương pháp mô học để quan sát cấu trúc 9 cơ quan trên cá lóc khỏe
gồm: da, cơ, mang, tim, gan, thận, tỳ tạng, dạ dày và ruột.
Phân tích và mô tả cấu trúc vi thể của các cơ quan đã quan sát.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
3
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược về nghiên cứu mô học
Việc nghiên cứu tế bào và mô học bắt đầu từ thế kỷ XVII nhưng mãi đến gần
cuối thế kỷ XIX, tế bào học và mô học mới thực sự được coi là ngành khoa
học.
Malpighi (1624-1694), một trong số những nhà khoa học Châu Âu đã có hàng
loạt phát hiện có giá trị trong việc nghiên cứu tế bào và mô. Vào khoảng
những năm 1675-1680, ông đã mô tả cấu tạo của da, thận, lách và một số cơ
quan khác của cơ thể, do đó một số cấu trúc đã được mang tên ông. Năm
1677, người thợ kính Hà Lan Anatolie Leeuwenhoek đã chế tạo được chiếc
kính hiển vi có độ phóng đại đối tượng quan sát tới 300 lần. Từ đó, ông đã có
khả năng mô tả hồng cầu và sự vận chuyển chúng trong các mao mạch máu,
phát hiện những tinh bào, nhìn thấy những vạch sáng, tối của sợi cơ vân, cấu
tạo sợi thần kinh, sợi gân. Tuy vậy, việc nghiên cứu cấu tạo vi thể của cơ thể
động vật được tiến hành muộn hơn so với việc nghiên cứu thực vật. Vào năm
1825-1827, Purkinje mô tả nhân của noãn trong trứng gà và sau đó chính ông
đã mô tả bào tương của tế bào. Ít năm sau, Brown (1831) cũng mô tả nhân
trong tế bào thực vật. Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học kể trên
cũng như những công trình nghiên cứu của Dutrochet, Valentin, Schleiden đã
giúp cho Schwann xây dựng và công bố học thuyết tế bào vào năm 1839 (trích
dẫn bởi Phạm Phan Địch, 2004).
Xanvier Bichat (1771 -1802), giảng viên dạy giải phẩu học và phẩu thuật tại
trường đại học của Pari, đã đưa ra khái niệm chung đầu tiên về mô học trên
động vật, và từ đó mô học trở thành một phần của môn giải phẩu học dạy cho
sinh viên y khoa. Tiếp theo đó, các nhà động vật học đã vận dụng công cụ mới
này vào nghiên cứu của họ trên nhiều động vật khác nhau. Trước sự tiến bộ
của nghiên cứu mô học, các nhà sinh vật học đã nhận ra rằng đây là ngành
khoa học không chỉ hữu ích để nghiên cứu cơ quan bình thường mà còn là cơ
sở cho việc nghiên cứu những thay đổi bệnh lý của mô, cơ quan bệnh (trích
dẫn bởi Hibiya, 1982).
Thêm vào đó, sự có mặt của parrafin cũng góp phần không nhỏ đối với nghiên
cứu mô học. Năm 1830, Carl Reichenbach đã phát hiện ra sáp parrafin, chất
dùng cho việc cố định mẫu mô vào khung để cắt mẫu dễ dàng hơn. Nó là một
chất sáp màu trắng, không mùi, không vị, nhiệt độ nóng chảy khoảng 470C-
640C. Parrafin không tan trong nước nhưng có thể tan trong ete, benzen, và tan
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
4
ít trong este. Vì nhiệt độ nóng chảy của parrafin tương đối thấp và có thể đông
nhanh nên quá trình đúc khối mẫu mô được thực hiện một cách dễ dàng
(
Những thành công tiếp theo trong kỹ thuật mô học nữa thế kỷ XIX như việc
chế tạo máy cắt lát mỏng (microtome), cho phép người ta nghiên cứu tỉ mỉ cấu
trúc vi thể của các tế bào và mô. Máy microtome có khả năng cắt mẫu mô
thành những lát rất mỏng (vài micromet) để quan sát cấu trúc vi thể các mô, cơ
quan dưới kính hiển vi.
Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi học thuyết tế bào ra đời thì ngành mô học mô tả
bắt đầu phát triển mạnh. Những thành phần khác nhau của các cơ quan và các
mô đã được nghiên cứu cẩn thận. Từ các kết quả đạt được trong lĩnh vực
nghiên cứu cấu tạo vi thể tế bào đã cho phép người ta tách việc nghiên cứu tế
bào thành một phần riêng biệt trong mô học gọi là Tế bào học. Học thuyết tế
bào không chỉ là cơ sở của việc nghiên cứu cấu trúc mô bình thường mà còn là
cơ sở của việc nghiên cứu những thay đổi bệnh lý của mô, cơ quan và đồng
thời nó cũng là cơ sở của việc nghiên cứu những hoạt động sinh lý (Phạm
Thanh Liêm, 2004).
Rudolph Virchow (1821 -1902), một nhà nghiên cứu bệnh người Đức đã đề
xuất ý tưởng: “bệnh có thể được đặc trưng bởi những biến đổi ở cấp độ tế
bào”. Ý tưởng này của ông đã đóng góp to lớn cho học thuyết tế bào và cho sự
phát triển của mô bệnh học. Từ đó, mô học không chỉ được ứng dụng trong
nghiên cứu cấu trúc mô bình thường mà còn được áp dụng trong nghiên cứu
những biến đổi cấu trúc của các cơ quan khi bị nhiễm bệnh.
Những tiến bộ về mặt kỹ thuật mô đã thúc đẩy ngành mô học ngày càng phát
triển mạnh mẽ và chuyên sâu hơn trên nhiều đối tượng khác nhau. Và đến khi
thủy sản trở thành ngành mũi nhọn ở nhiều quốc gia thì mô học cũng trở thành
một công cụ không thể thiếu để nghiên cứu trên các đối tượng thủy sản.
2.2 Nghiên cứu mô học trên cá
Trên cá, nghiên cứu mô học và mô bệnh học đã được tiến hành khá nhiều trên
thế giới từ nữa cuối thế kỷ XX như:
Vào năm 1982, Hibiya đã dùng mô học để mô tả cấu trúc bình thường của tất
cả các cơ quan trên một số loài cá, đồng thời ông cũng phân tích những biến
đổi của các cơ quan ấy khi cá bị tác nhân gây bệnh xâm nhập. Tác giả đã
nghiên cứu trên các loài cá quan trọng như cá chép, cá hồi, cá chình (Anguilla
anguilla, Anguilla japonicus).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
5
Cũng trong năm 1982, Groman đã dùng mô học để nghiên cứu cấu trúc mô
bình thường trên cá chẽm. Nghiên cứu này được tiến hành có ý nghĩa như một
tiền đề cho những nghiên cứu kế tiếp. Ông đã quan sát cấu trúc vi thể bình
thường của hệ hô hấp, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hoá, hệ sinh dục, hệ
bài tiết,…ở nhiều giai đoạn của cá từ cá giống đến cá 3 năm tuổi.
Nash ctv. (1986) cũng đã dùng phương pháp mô học để xác định những thay
đổi vi thể trên các cơ quan cá khi bị vi khuẩn tấn công (trong nghiên cứu bệnh
vi khuẩn có liên quan đến dịch bệnh ở cá chẽm (Lates calcarifer) và cá bống
mú (Epinephalus tauvina). Nghiên cứu cho thấy nhiều thay đổi như: lớp biểu
bì ở da bị thoái hóa, vẩy bị mất, lớp bì và trung tâm các bó cơ xuất huyết và
hoại tử dữ dội, các tế bào bị viêm, sưng, chứa đầy các khuẩn lạc lớn gram âm.
Trên thận và tỳ tạng xuất hiện những vùng mô tạo máu bị hoại tử mất hết các
tế bào máu trưởng thành, viêm cầu thận và có sự xâm nhập của lympho bào.
Gan, tuyến tụy xuất hiện dịch viêm, hoại tử rãi rác và các trung tâm hoại tử…
(trích dẫn bởi Bùi Châu Trúc Đan, 2003).
Cũng vào năm 1986, Miyazaki ctv. mô tả những biến đổi mô bệnh học của cá
nheo Mỹ khi bị Ictalurus punctatus tấn công cùng với Ichthyobodo necator,
Ambiphyrya ameiuri, Apiosoma micropteri, và Heteropolaria colisarum. Sau
khi đã quan sát biểu hiện ngoài và kiểm tra ký sinh trùng, họ tiến hành làm
mẫu mô của da, mang và các cơ quan nội tạng. Kết quả cho thấy những sợi
mang bị nhiễm I. necator nặng sẽ có sự phát triển quá mức của tế bào biểu mô
mang, thay đổi này làm rối loạn hoạt động hô hấp của mang và ảnh hưởng đến
quá trình trao đổi chất của cơ thể. Còn khi A. ameiuri bám vào bề mặt cơ thể
gây ra sự thói hóa da, A. micropteri bám chặt vào mang làm thói hóa biểu mô
hô hấp, H. colisarum xâm nhập vào da thì hình thành những vết loét trên bề
mặt cơ thể kể cả các vi.
Nối tiếp những nghiên cứu về bệnh cá, Shariff (1989) tiến hành nghiên cứu
mô bệnh học trên mắt cá chép đầu lớn (Anristichthys nobilis) bị nhiễm trùng
mỏ neo (Lernaea piscinae). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy sự thay đổi
mô bệnh học trên mắt cá khi trùng mỏ neo xâm nhập và phát triển trong nhiều
tế bào mô của mắt. Rukyani (1990) nghiên cứu thay đổi mô bệnh học trên
mang cá chép (Cyprinus carpio) bị nhiễm thích bào tử trùng (Myxobolus). Kết
quả cho thấy: các phiến mang bị dính lại, sưng viêm, xung huyết và hoại tử
khi mang cá bị túi thích bào tử trùng ký sinh nhiều (trích dẫn bởi Phạm Thị
Như Sang, 2006).
Chinabut ctv. (1991) đã nghiên cứu và mô tả cấu trúc vi thể của tất cả các cơ
quan trên cá trê trắng Clarias batrachus. Họ tiến hành nghiên cứu trên cá trê
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
6
trắng khỏe và đã mô tả cấu trúc bình thường của các hệ cơ quan như: hệ cơ, bộ
xương, hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, hệ bài tiết, hệ hô hấp, hệ sinh dục… Kết quả
của nghiên cứu này sẽ là cơ sở so sánh khi cá bệnh.
Nghiên cứu tiếp theo trên các đối tượng cá khỏe là nghiên cứu của Herrera
(1996) trên cá rô phi (Oreochromis niloticus). Ông cũng dùng mô học để
nghiên cứu và đã tiến hành mô tả cấu trúc vi thể các cơ quan như hệ da, hệ cơ,
hệ xương, hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ bài tiết, hệ sinh dục, hệ thần kinh, các cơ
quan cảm giác, hệ tuần hoàn,… Đối tượng thí nghiệm của ông trong nghiên
cứu này là cá rô phi ở giai đoạn từ một tuần tuổi (dài từ 1.0-1.3cm) đến cá
trưởng thành (dài từ 15-20cm).
Tiếp theo đó, phương pháp mô học cũng đã được Chinabut và Robert áp dụng
khi họ nghiên cứu về bệnh bệnh lở loét (Epizootic Ulcerative Syndrome- EUS)
trên cá vào năm 1999. Họ đã mô tả những biến đổi cấu trúc của các cơ quan
như da, cơ, thận, ống mật,… trên các loài: cá lóc, cá chép Ấn Độ, cá rô phi, cá
hồi,...
Ở nước ta nói chung và ở Đại học Cần Thơ nói riêng cũng đã có những nghiên
cứu mô học trên các đối tượng thủy sản, đặc biệt là trên cá tra như:
Nguyễn Quốc Thịnh (2002) với đề tài “Nghiên cứu mô bệnh đốm trắng trong
nội tạng cá tra (Pangasius hypophthalmus)” đã tiến hành nghiên cứu mô học
trên cá tra nuôi ao, bè ở các cơ quan như: gan, thận, tỳ tạng, tim, mang, cơ của
cá khỏe và cá bệnh. Tác giả đã so sánh và đưa ra kết quả về những biến đổi
cấu trúc của mô cá bệnh so với cá khỏe như hiện tượng xung huyết, xuất huyết
và hoại tử.
Bùi Châu Trúc Đan (2003) cũng dùng phương pháp mô học nghiên cứu cấu
trúc vi thể của cá tra khỏe và cá tra bệnh phù mắt trên các cơ quan: da, cơ,
mang, tim, gan, thận, dạ dày, mắt… Dựa trên đặc điểm phân tích được từ cá
bệnh, tác giả kết kuận cá tra bị bệnh phù mắt có các tổn thương chủ yếu là
xung huyết, xuất huyết. Các cơ quan bị tổn thương nặng nhất là gan, tỳ tạng và
mắt với những vùng hoại tử và mất cấu trúc.
Cũng vào năm 2003, Trần Hồng Ửng đã tiến hành nghiên cứu sự thay đổi mô
tỳ tạng và số lượng tế bào bạch cầu trên cá tra có dấu hiệu trắng gan. Tác giả
tiến hành quan sát cấu trúc vi thể của tỳ tạng cá tra bình thường sau đó so sánh
với tỳ tạng của cá khi chúng có dấu hiệu trắng gan, đồng thời tác giả cũng so
sánh thành phần phần trăm các loại tế bào bạch cầu giữa cá bệnh và cá khỏe.
Kết quả cho thấy tỳ tạng ở cá bệnh có phần tủy trắng chiếm nhiều hơn so với
cá khỏe, khi cá bị bệnh nặng thì xuất hiện nhiều vùng hoại tử, tỳ tạng mất chức
năng sản sinh ra các tế bào hồng cầu, bạch cầu…
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
7
Đến năm 2004, Phan Thị Hừng dùng mô học nghiên cứu cá tra bị bệnh vàng
da trên các cơ quan như: gan, thận và tỳ tạng, đồng thời chị cũng nghiên cứu
về sự biến động số lượng tế bào hồng cầu của chúng khi bị bệnh. Sau khi so
sánh với cấu trúc mô của các cơ quan này ở cá bệnh với cá khỏe, tác giả cho
biết cá tra bị bệnh vàng da có cấu trúc mô gan, thận, tỳ tạng không thay đổi
nhiều so với cá khỏe. Tuy nhiên, do số lượng hồng cầu trong máu cá bệnh
giảm 50% so với ở cá khỏe nên lượng hồng cầu trong các mao mạch của gan,
thận, tỳ tạng cá bệnh rất ít so với cá khỏe...
Trần Thị Ngọc Hân (2006) đã tiến hành “Khảo sát mô học cá tra (Pangasius
hypophthalmus) bị bệnh mủ gan trong điều kiện gây cảm nhiễm”. Với đề tài
này, tác giả cũng mô tả sự biến đổi cấu trúc mô ở 9 cơ quan của cá tra giống
khi gây cảm nhiễm vi khuẩn Edwarsiella ictaluri, và tiến hành so sánh sự biến
đổi cấu trúc mô của cá ở 2 phương pháp gây cảm nhiễm: ngâm và tiêm. Kết
quả cho thấy thận và tỳ tạng là 2 cơ quan biến đổi đầu tiên khi cá bị vi khuẩn
gây bệnh xâm nhập. Trong cùng mật độ vi khuẩn, cấu trúc mô của mẫu thu ở
phương pháp tiêm có sự biến đổi nhanh hơn mẫu thu ở phương pháp ngâm…
Phạm Thị Như Sang (2006) nghiên cứu đặc điểm mô học của cá tra nuôi ao và
bè thâm canh trên 3 cơ quan: gan, thận, tỳ tạng. Kết quả phân tích cho thấy: cá
nuôi ao hay nuôi bè đều có biến đổi vi thể tương đối giống nhau trong cùng
biểu hiện bệnh. Trên cả 3 cơ quan khảo sát đều có sự xuất hiện của trùng bào
tử sợi Myxozoa ký sinh làm cho các cơ quan này bị hoại tử và mất chức năng.
2.4 Vài nét về cá lóc
2.4.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc
Theo Phạm Văn Khánh, 2000 thì cá lóc được phân loại như sau:
Bộ cá vược Perciformes
Họ cá Lóc Channidae
Giống cá Lóc Channa
Loài cá Lóc Channa striata Bloch, 1793
Cá lóc sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh rạch, ao, hồ, sông… thích nghi được
cả với môi trường nước đục, nước tù, nước lợ và có thể chịu đựng nhiệt độ
trên 30oC (Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ, 2001). Do có khả năng hô hấp phụ
nên chúng có thể sống rất lâu trên cạn chỉ cần ẩm ướt toàn thân. Cá sống chủ
yếu ở nước ngọt nhưng cũng gặp ở môi trường nước lợ 5 -7 o/oo (Phạm Văn
Khánh, 2000).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
8
Cá lóc là loài cá dữ cơ thể có hình dạng tròn dài, thực quản ngắn và vách dày,
bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày dạng túi, to, hình chữ Y. Quan
sát trong ống tiêu hóa của cá có chứa cá chiếm 63,01%, tép 35,94%, ếch nhái
1,03% và 0,02% là bọ gạo, côn trùng và mùn bã hữu cơ. Đặc điểm này chứng
tỏ đây là loài cá ăn động vật điển hình (Dương Nhựt Long, 2003).
Cá lóc có thể sinh sản quanh năm nhưng thường tập trung từ tháng 5-7 dương
lịch hàng năm và đẻ rộ sau những cơn mưa lớn. Sức sinh sản của cá phụ thuộc
vào trọng lượng cá cái: cá có trọng lượng từ 1-1,5kg sức sinh sản từ 150000-
20000 trứng/ tổ cá và từ 5000-10000 trứng/ tổ đẻ (Kiểm ctv., 2004).
Cá thường đẻ vào sáng sớm sau mỗi trận mưa rào một hai ngày ở nơi yên tĩnh
và có nhiều động vật thủy sinh. Trước lúc đẻ, cá dùng miệng thu rong, cỏ nước
làm tổ hình tròn, đường kính khoảng 40-50cm. Sau khi đẻ, cá bố mẹ nằm dưới
bảo vệ tổ đẻ. Ở nhiệt độ 20-35oC sau 3 ngày trứng nở thành cá bột. Trong môi
trường tự nhiên, sau 3 ngày cá tiêu hết noãn hoàng, cá con cỡ 4-5cm bắt đầu
tách khỏi đàn sống độc lập (Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ, 2001).
2.4.2 Tình hình nuôi cá lóc ở ĐBSCL
Cá lóc là loài cá rất quen thuộc với bà con vùng ĐBSCL không chỉ vì đây là
loài cá có chất lượng thịt ngon, dễ nuôi mà còn vì nó đã góp phần giúp bà con
nông dân thoát nghèo và ngày càng nâng cao cuộc sống vật chất của họ.
Có thể nói An Giang và Đồng Tháp là hai tỉnh nuôi cá lóc nhiều nhất ở
ĐBSCL với các mô hình nuôi như nuôi cá lóc đăng quần, nuôi mùng trong
mùa lũ. Các hình thức nuôi này khá hiệu quả, vừa dễ tiến hành, người dân lại
không cần có diện tích đất nuôi nên được nuôi phổ biến.
Theo kết quả điều tra ở thời điểm tháng 4/2005, sản lượng cá lóc nuôi trong
toàn tỉnh An Giang là 6.911 tấn, tập trung nhiều ở các huyện như: Phú Tân
2.593 tấn, Chợ Mới 812 tấn, Châu Đốc 742 tấn, An Phú 687 tấn, Thoại Sơn
616 tấn, Long Xuyên 529 tấn, Châu Phú 494 tấn,… Các hình thức nuôi chủ
yếu là nuôi ao và nuôi vèo, cụ thể như sau:
Nuôi ao có diện tích: 64,7 ha, sản lượng là 2.543 tấn, chiếm 36,8 %,
Nuôi vèo có diện tích: 9,758 ha, sản lượng là 2.721 tấn chiếm 39,4 %
Các hình thức nuôi khác như: Nuôi bè, nuôi chân ruộng 23,8 % (Trần Phùng
Hoàng Tuấn, 2005).
Ngoài những mô hình nuôi mùa lũ đã nêu thì cá lóc còn được nhiều hộ dân ở
Bến Tre nuôi trong vèo lưới với qui mô công nghiệp cũng có hiệu quả.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
9
Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình
vuông hoặc hình chữ nhật, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 0,5m, độ sâu nước
trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như
nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ
sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn
và ngủ rồi lại ăn nên cá tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều. Giá trị thương
phẩm cao hơn cá chỉ trong nuôi ao. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm
các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn
thu không nhỏ (Trần Quốc, 2007).
Do cá lóc là loài thích nghi tốt với điều kiện môi trường nên chúng được nuôi
ngày càng phổ biến trong nhiều mô hình. Ngoài các mô hình nuôi cá lóc thoát
nghèo trong mùa lũ thì còn có vài mô hình nuôi cá lóc như sau:
Mô hình nuôi cá lóc trong ao
Diện tích nuôi từ 100-1000m2, sâu từ 1,5-2m. Mật độ trung bình 20-30con/m2
tùy vào kích cỡ giống thả nuôi (cá 7-10cm mật độ từ 10- 20con/m2, 5-7cm
nuôi 20-50con/m2). Thức ăn có thể sử dụng để cho cá ăn là thức ăn tươi sống
như: cá tạp, ếch nhái, tép, thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến…
Khẩu phần ăn mỗi ngày từ 5-7% trọng lượng cá. Sau khi nuôi 6-7 tháng, nếu
chăm sóc và