Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành của bộ máy nhà nước, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ thị 53-CT/ TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu là "xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "[17, tr. 2] trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng, công tác tư pháp đã đạt được những kết quả cụ thể, đáng khích lệ, đánh dấu những biến chuyển tích cực trong công tác tư pháp, đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân:
Đã khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh, không có "vùng cấm" nào. [5, tr. 5].
Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế mà nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của các hạn chế đó không phải chỉ có một, cần được nghiên cứu làm rõ và có hướng khắc phục để tiếp tục tiến trình cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đổi mới. Mặt khác, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chức năng của VKSND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một chức năng mà VKSND đã đảm đương từ lâu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc và khó khăn do chưa đạt được sự thống nhất cao cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác thực hiện chức năng của VKSND. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần đảm bảo sự thống nhất trong hành động, nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó cho VKSND, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND ở một cấp cụ thể trên địa bàn cụ thể đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong điều kiện cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học.
114 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4062 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành của bộ máy nhà nước, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ thị 53-CT/ TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu là "xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…"[17, tr. 2] trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng, công tác tư pháp đã đạt được những kết quả cụ thể, đáng khích lệ, đánh dấu những biến chuyển tích cực trong công tác tư pháp, đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân:
Đã khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh, không có "vùng cấm" nào... [5, tr. 5].
Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế mà nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của các hạn chế đó không phải chỉ có một, cần được nghiên cứu làm rõ và có hướng khắc phục để tiếp tục tiến trình cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đổi mới. Mặt khác, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chức năng của VKSND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một chức năng mà VKSND đã đảm đương từ lâu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc và khó khăn do chưa đạt được sự thống nhất cao cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác thực hiện chức năng của VKSND. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần đảm bảo sự thống nhất trong hành động, nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó cho VKSND, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND ở một cấp cụ thể trên địa bàn cụ thể đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong điều kiện cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là các chức năng hiến định của VKSND. Về vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Đáng chú ý là các công trình đã được công bố sau:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra" của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Văn Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân" của Trịnh Duy Tám, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
Ngoài ra, còn có các bài viết của các tác giả khác với các ý kiến và quan điểm khác nhau được đăng trên các báo và Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học…, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua từng năm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của VKSND; thực trạng của công tác này ở Viện kiểm sát (VKS) cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của các công tác này.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND; tìm hiểu thực trạng của hoạt động này ở VKS cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây; trên cơ sở đó đánh giá chất lượng của các công tác này, những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, yếu kém tồn tại và làm rõ nguyên nhân của chúng đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự ở giai đoạn điều tra (kiểm sát điều tra), thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến 2006.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong tố tụng hình sự, luận văn sử dụng các phương pháp logic và lịch sử, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn, phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, thực tiễn của hoạt động này tại cấp huyện trên một địa bàn cụ thể có vị trí quan trọng về nhiều mặt - Thủ đô Hà Nội; đánh giá các kết quả cũng như các thiếu sót tồn tại và đề ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động chức năng này của VKSND. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của VKSND trong giai đoạn cách mạng hiện nay và cũng là một nhiệm vụ mà VKSND vốn đảm nhiệm đã từ lâu, ngay từ khi tổ chức tiền thân của nó là Viện công tố ra đời và đi vào hoạt động. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung, trong khoa học kiểm sát nói riêng và ngay cả trong thực tiễn hoạt động của VKSND vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về các vấn đề này cả trên phương diện khái niệm, nội dung, đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng như mối quan hệ giữa chúng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức mà còn tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung, cơ quan VKSND nói riêng. Để góp phần từng bước nâng cao hiệu quả và dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm sát, điều không thể thiếu được là cần phải làm rõ từ trong nhận thức về các vấn đề cơ bản có liên quan đến các hoạt động chức năng này: Khái niệm thế nào là thực hành quyền công tố, thế nào là kiểm sát các hoạt động tư pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi cũng như mối quan hệ giữa chúng.
1.1.1. Thực hành quyền công tố
Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu về quyền công tố: Khái niệm, nội dung, phạm vi và đối tượng của nó cả trên phương diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.
1.1.1.1. Quyền công tố
a) Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng đối với người phạm tội đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Cùng với thời gian, đến nay, quyền công tố đã trở thành một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự ở đa số các nước văn minh trên thế giới. Ở nước ta, về mặt lập pháp, thuật ngữ quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của VKSND (tại cụm từ "thực hành quyền công tố"). Từ đó đến nay, trong khoa học và trong thực tiễn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về khái niệm cũng như các vấn đề có liên quan: Đối tượng, phạm vi, nội dung, chủ thể thực hành của quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố nhưng chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền chính thức công nhận và cũng chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn một cách chính thức về các vấn đề này.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án" [47, tr. 453]. Như vậy, theo từ điển tiếng Việt thì công tố được hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm: Điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án.
Trong giới nghiên cứu khoa học, về khái niệm thế nào là quyền công tố có thể kể đến một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS đều là thực hành quyền công tố. Những người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND. Theo họ, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS [19, tr. 85-87].
Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS và như vậy là không chính xác bởi vì thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức năng hoàn toàn độc lập của VKSND. Mặc dù trong quá trình thực hiện hai chức năng này, có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi công tác thực hiện chức năng của VKS, trong mọi hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể phủ nhận tính độc lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp dụng và vì vậy không thể đồng nhất chúng [24, tr. 17-20].
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này được giao cho VKSND [19, tr. 19]. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng khác của VKS trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba: Là quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (duy trì quyền công tố); ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho VKSND [62, tr. 1-60]. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể có quyền công tố - đó là VKS; việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Theo tác giả, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố; không những vậy còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố và hơn thế nữa còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố bởi vì truy tố và buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, là một số hoạt động cụ thể trong số những hoạt động của VKS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm trong TTHS khi thực hành quyền công tố; ngoài các quyền năng đó ra, VKS còn có nhiều quyền năng khác nữa khi thực hành quyền công tố cả ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai đoạn khác ngoài giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [62, tr. 10]. Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan điều tra, Tòa án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS, đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [3, tr. 40]. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong TTHS; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất VKSND, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ năm nêu trên về khái niệm quyền công tố bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự xem xét là tội phạm xâm hại trật tự chung của toàn xã hội".
Thứ hai, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định của pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố, cụ thể:
- Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố…".
- Khi nói về vai trò nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: "Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân phải trông nom, đảm bảo tốt".
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [16, tr. 2].
- Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729 ngày 14/3/2002) về dự án Luật Tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa" [42, tr. 4].
- Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi bổ sung - Điều 137) và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 1, 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)) quy định "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố" [59, tr. 39].
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSNDTC đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
Từ các ý kiến, tư tưởng chỉ đạo nêu trên, có thể thấy thực hành quyền công tố là việc truy cứu người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án; quyền công tố ở nước ta được giao cho chủ thể duy nhất là VKS; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và có ở tất cả các giai đoạn từ khi khởi tố, điều tra đến truy tố và xét xử hình sự; các công tác khác như giải quyết án dân sự, giam giữ cải tạo, giải quyết án hành chính, kinh tế, lao động, thi hành án … của VKSND là hoạt động thuộc lĩnh vực kiểm sát các hoạt động tư pháp khác…
Từ những ý kiến phân tích như trên đây, tác giả đi đến kết luận: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, góp phần ra bản án có căn cứ, đúng pháp luật.
b) Đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố
Như đã phân tích trên, do hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố nên hệ quả cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố:
* Đối tượng của quyền công tố
- Những người có quan điểm đồng nhất quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật thì cho rằng đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người thực hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
- Với quan điểm "quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật thống trị ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật" thì đối tượng của quyền công tố là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật. Tức là đối tượng của quyền công tố rất rộng và không cụ thể bởi lẽ các hành vi vi phạm pháp luật thì rất đa dạng, phong phú và không chỉ có trong lĩnh vực TTHS mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, vì chức năng duy nhất của quyền công tố là chức năng buộc tội nhân danh Nhà nước, và vì chỉ có lĩnh vực TTHS là lĩnh vực duy nhất liên quan đến việc truy tố và buộc tội đối với người phạm tội, các lĩnh vực tư pháp khác là các lĩnh vực chỉ liên quan đến các vi phạm, tranh chấp khác cho nên quyền công tố chỉ có duy nhất trong lĩnh vực TTHS, không thể có trong các lĩnh vực tư pháp khác. Với quan điểm tán đồng với quan điểm thứ năm như đã nê