Cơ chế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang làm thay đổi căn
bản bộ mặt kinh tế - xã hội của nước ta. Trong sự phát triển đó, lĩnh vực tài chính
- ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng cũng đã
có những bước phát triển đáng ghi nhận. Số lượng các NHTM tăng lên nhanh
chóng, quy mô và chất lượng hoạt động cũng ngày càng được nâng cao. Đặc biệt,
trong giai đoạn từ năm 1995 trở lại đây – giai đoạn Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới (lấy mốc thời gian kể từ khi Việt
Nam gia nhập ASEAN), hệ thống NHTM của Việt Nam đã có những đóng góp
tích cực vào việc cải thiện tình hình thị trường tài chính trên phạm vi cả nước,
mang lại cho các bộ phận người sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của các NHTM
những tiện ích đáng kể Ngoài ra, với tính chất ưu việt riêng, hoạt động của các
NHTM còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) toàn
ngành tài chính – ngân hàng của Việt Nam nói chung cũng như của các NHTM
nói riêng bước vào một giai đoạn cạnh tranh đầy khó khăn. Các ngân hàng có
yếu tố nước ngoài tuy mới gia nhập thị trường nhưng lại có nhiều thế mạnh như
hệ thống chi nhánh, đại diện rộng khắp, uy tín trên thị trường quốc tế, tiềm lực
tài chính đã gây cho các NHTM trong nước không ít khó khăn. Điều này đòi
hỏi các NHTM Việt Nam phải thay đổi chiến lược khách hàng theo hướng năng
động hơn, đa dạng hơn và tự thích nghi trước những thay đổi, yêu cầu của nền
kinh tế cũng như của người dân. Vấn đề là ở chỗ cần thay đổi chiến lược khách
hàng như thế nào? Giải pháp nào cho sự thay đổi chiến lược khách hàng của các
NHTM Việt Nam?
102 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược khách hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------------------------------
NGUYỄN LÊ MINH
CHIẾN LƯỢC KHÁCH HÀNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2008
N
G
U
Y
Ễ
N
L
Ê
M
IN
H
L
U
Ậ
N
V
Ă
N
T
H
Ạ
C
S
Ỹ
K
IN
H
T
Ế
HÀ NỘI
2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------------------------------
NGUYỄN LÊ MINH
CHIẾN LƯỢC KHÁCH HÀNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
MÃ SỐ : 60.31.07
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
GƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. NGUYỄN THỊ MƠ
HÀ NỘI – 2008
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ chế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang làm thay đổi căn
bản bộ mặt kinh tế - xã hội của nước ta. Trong sự phát triển đó, lĩnh vực tài chính
- ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng cũng đã
có những bước phát triển đáng ghi nhận. Số lượng các NHTM tăng lên nhanh
chóng, quy mô và chất lượng hoạt động cũng ngày càng được nâng cao. Đặc biệt,
trong giai đoạn từ năm 1995 trở lại đây – giai đoạn Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới (lấy mốc thời gian kể từ khi Việt
Nam gia nhập ASEAN), hệ thống NHTM của Việt Nam đã có những đóng góp
tích cực vào việc cải thiện tình hình thị trường tài chính trên phạm vi cả nước,
mang lại cho các bộ phận người sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của các NHTM
những tiện ích đáng kể…Ngoài ra, với tính chất ưu việt riêng, hoạt động của các
NHTM còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) toàn
ngành tài chính – ngân hàng của Việt Nam nói chung cũng như của các NHTM
nói riêng bước vào một giai đoạn cạnh tranh đầy khó khăn. Các ngân hàng có
yếu tố nước ngoài tuy mới gia nhập thị trường nhưng lại có nhiều thế mạnh như
hệ thống chi nhánh, đại diện rộng khắp, uy tín trên thị trường quốc tế, tiềm lực
tài chính… đã gây cho các NHTM trong nước không ít khó khăn. Điều này đòi
hỏi các NHTM Việt Nam phải thay đổi chiến lược khách hàng theo hướng năng
động hơn, đa dạng hơn và tự thích nghi trước những thay đổi, yêu cầu của nền
kinh tế cũng như của người dân. Vấn đề là ở chỗ cần thay đổi chiến lược khách
hàng như thế nào? Giải pháp nào cho sự thay đổi chiến lược khách hàng của các
NHTM Việt Nam?
Để làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên, cần phải có sự nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ về chiến lược khách hàng của các NHTMVN. Đó chính là lý
do để vấn đề “CHIẾN LƢỢC KHÁCH HÀNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ” được chọn làm đề tài của luận văn thạc sỹ này.
2
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài đã có nhiều công trình, bài báo nghiên cứu liên quan đến chiến
lược khách hàng của các NHTM như:
1. Customer strategy: the direct approach. By Matt Henkes – Customer
Management Assessment Tool (CMAT) số ra ngày 02.11.2007
2. Zoellick wins backing for the new World Bank strategy. By Lesley
Wroughton – Reuter số ra ngày 21.10.2007
3. Scrambled Egg: The Making and Breaking of an Online Bank. By Victoria
Griffith – Financial Time số ra tháng 4 năm 2001
4. How to Treat Customers Right: Winning the Channels Challenge. By Eva
Hirsh – Strategy and bussines số ra tháng 9 năm 1999
5. Innovating Customer Service: Retail Banking’s New Frontier. Strategy and
bussines số ra ngày 22.12.2006
…
2.2. Ở Việt Nam
Trong thời gian qua, đã có một số bài báo, công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề chiến lược khách hàng của NHTM trong giai đoạn hiện nay như:
1. Đinh Ngọc Ba – Khách hàng và chiến lược khách hàng trong hoạt động
kinh doanh của NHTM, Tạp chí Ngân hàng số tháng 10 năm 2004.
2. Vũ Lê – Chiến lược kinh doanh của các NHTM trước sức ép hội nhập,
Thời báo ngân hàng, ngày 07/6/2007.
3. Nguyễn Thị Hồng Hải – Những thách thức đối với hệ thống NHTM Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, Tạp chí công nghiệp số tháng 5
năm 2006.
4. Nguyễn Thùy Dương – Nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của
hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số
tháng 4 năm 2006.
5. Nguyễn Đại Lai – Đề xuất những nét tổng quan về chiến lược phát triển
ngân hàng Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn 2020, Website Ngân hàng
nhà nước Việt Nam, ngày 19/01/2005.
3
6. Đề án “Thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 – 2010 và định
hướng 2020” của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
…
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu này mới chỉ dừng ở mức ý kiến tổng
quan, khái quát hoặc phân tích một số khía cạnh liên quan đến chiến lược khách
hàng của các NHTM trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Chưa có đề tài nào đi
sâu vào phân tích thực trạng chiến lược khách hàng của các NHTM Việt Nam
trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO. Luận văn thạc sỹ kinh tế này là đề
tài nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về chiến lược khách hàng, sau
khi đánh giá thực trạng chiến lược khách hàng của các NHTMVN trong thời
gian qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển chiến lược
khách hàng của các NHTMVN đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về NHTM và chiến lược khách hàng của
NHTM như khái niệm, đặc điểm của NHTM, nội dung của chiến lược
khách hàng của NHTM;
- Nêu bật vai trò của chiến lược khách hàng đối với các NHTM trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
- Đánh giá thực trạng phát triển của NHTM Việt Nam hiện nay;
- Phân tích thực trạng xây dựng và phát triển chiến lược khách hàng của
các NHTM trong thời gian qua;
- Nêu bật sự cần thiết phải phát triển chiến lược khách hàng của các
NHTM trong điều kiện hiện nay;
- Đề xuất giải pháp phát triển chiến lược khách hàng của các NHTM hậu
WTO.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến chiến lược
khách hàng của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ kinh tế, phạm vi nghiên cứu của
luận văn giới hạn ở việc phân tích chiến lược khách hàng của các NHTM Việt
Nam nói chung, không đi sâu phân tích chiến lược khách hàng của từng NHTM
cụ thể. Việc phân tích một số NHTM cụ thể chỉ nhằm nêu bật chiến lược khách
hàng của các NHTM nói chung. Ngoài ra, về mặt không gian, luận văn giới hạn
phạm vi nghiên cứu từ năm 1995, tức là kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN
đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê và so sánh. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này
được sử dụng một cách linh hoạt, hoặc kết hợp hoặc riêng lẻ để giải quyết các
vấn đề một cách hiệu quả nhất.
6. Kết cấu của luật văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu,
nội dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về chiến lược khách hàng của các ngân hàng
thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng chiến lược khách hàng của các ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển chiến lược khách hàng của
các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN LƢỢC
KHÁCH HÀNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các doanh
nghiệp tham gia vào một môi trường kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu
vực với các các quy luật chung (luật chơi) mang và có các yếu tố cạnh tranh.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự do hoá thương mại
và đầu tư, làm cho các rào cản đối với trao đổi thương mại và đầu tư bị loại bỏ
dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường thương mại quốc tế,
thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực bên trong
nhằm phát triển những ngành sản xuất mà mỗi nước có khả năng và hiệu quả
nhất.
Trong bối cảnh hiện nay, người ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập vẫn
là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức
thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung,
nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Hội nhập
là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo
điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian
để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc
tế. Như vậy hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự
phát triển kinh tế mỗi nước. Cần phải hội nhập sớm, nhất là tham gia WTO, để
tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá trình hình thành luật lệ
kinh tế, thương mại quốc tế có lợi cho mình. Không thể né tránh việc hội nhập
mà vấn đề then chốt là cần phải nhận thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả
cho việc tổ chức và vận hành các hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính
sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất
những cơ hội để phát triển.
Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách
và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế
6
trong nước để phù với “luật chơi chung” của quốc tế. Điều này không có nghĩa
là các nước bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập bởi thực chất cải cách, hội
nhập là vì chính sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn
chặt với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành
chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách trong nước và
hội nhập là “Con đường hai chiều”. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và
hiệu quả hội nhập, đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức
rằng dù có hội nhập hay không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn,
nhanh hơn vì sự phát triển của mình. Điều quan trọng là phải duy trì ổn định
chính trị, xã hội để phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ
yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển mạnh mẽ về khoa học
và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới.
Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Quá trình này thể hiện không chỉ
trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính,
đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa
dạng và mức độ khác nhau. Hội nhập kinh tế quốc tế đang thúc đẩy mạnh mẽ sự
hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh
đó cùng với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển”, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc
gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU (7 -
1995), tham gia APEC (11- 1998) và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) cuối năm 2006, Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay
không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được
lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó,
một vấn đề đặt ra là tham gia tích cực vào tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các NHTM của Việt
7
Nam nói riêng cũng phải nỗ lực vươn lên để đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh
tế trong giai đoạn hậu WTO.
1.1.2. Đặc điểm của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá là quá trình liên kết các quốc gia
trên thế giới về nhiều mặt, từ kinh tế đến văn hoá, khoa học… Hội nhập kinh tế
quốc tế có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của nền kinh tế - xã hội thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thương mại thế giới phát triển mạnh:
- Tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới luôn cao hơn tốc độ tăng
trưởng của toàn bộ nền kinh tế thế giới.
- Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với 151 thành viên (tính đến tháng
5/2008 – Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 và Tonga là thành
viên thứ 151) chi phối tới 95% hoạt động thương mại của thế giới và có
vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại, làm cho nền
kinh tế thế giới phát triển năng động.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh:
- Từ năm 1990 đến năm 2007 đầu tư nước ngoài đã tăng từ 1774 tỉ USD
lên trên 10 nghìn tỉ USD.
- Trong đầu tư nước ngoài, lĩnh vực dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn,
trong đó nổi lên hàng đầu là các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm…
Thứ ba, thị trường tài chính quốc tế mở rộng:
- Với hàng vạn ngân hàng được nối với nhau qua mạng viễn thông điện tử,
một mạng lưới liên kết tài chính toàn cầu đã và đang mở rộng trên toàn
thế giới.
- Các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB) ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn
cầu, cũng như trong đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia.
Thứ tư, các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn:
- Các công ty xuyên quốc gia có phạm vi hoạt động ở nhiều quốc gia khác
nhau, nắm trong tay nguồn của cải vật chất rất lớn và chi phối nhiều
ngành kinh tế quan trọng.
8
Thứ năm, bước vào thế kỷ 21, những xu thế mới của quá trình toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế được đặc trưng ở một số khía cạnh cơ bản sau đây:
- Xu thế hòa bình ổn định, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở chuyển từ thế
giới 2 cực sang thế giới đa cực, chuyển từ đối đầu sang đối thoại hợp tác.
- Xu thế phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, sự xuất hiện kinh tế tri
thức, trong đó sự xuất hiện các ngành kinh tế dựa trên nền tảng tri thức
như công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới trở
thành trụ cột của nền kinh tế và là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng
và tồn tại của mỗi quốc gia.
- Xu thế tự do hóa thương mại ở cấp độ toàn cầu và cấp độ khu vực với sự
vận hành các tổ chức thương mại tự do (AFTA, NAFTA, APEC, EU,
WTO...) đang gắn kết các nước với nhau trong môi trường thương mại
giảm thiểu thuế quan và phi thuế quan sẽ làm tăng khả năng trao đổi mậu
dịch, nâng cao lợi thế cạnh tranh và chất lượng hàng hóa.
- Xu thế phát triển hệ thống tài chính toàn cầu và tăng các dòng đầu tư
quốc tế càng làm tăng khả năng thích ứng của các quốc gia trong khuôn
khổ thể chế tài chính toàn cầu cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau về nguồn
vốn đầu tư và phát triển.
- Xu thế của các thể chế, định chế về mặt luật pháp, kinh tế, xã hội có tính
chất toàn cầu đã trở thành thế tất yếu đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ
luật chơi mới để nhanh chóng thích ứng với những chuyển biến sâu sắc
của một thế giới đang thay đổi.
- Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh
tế toàn cầu, đẩy nhanh đầu tư và khai thác triệt để khoa học công nghệ,
tăng cường sự hợp tác quốc tế.
- Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế cũng có những mặt tiêu cực, đặc biệt làm
gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo.
1.2. Ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm, vai trò và chức năng của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thương mại.
Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Điều 3 khoản 1 Luật Thương
9
mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác”. Như vậy, ngân hàng thương
mại tiến hành các hoạt động cung ứng nhằm mục đích sinh lợi.
Theo pháp lệnh Ngân hàng ngày 23-5-1990 thì “Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiếu khấu và làm phương tiện thanh toán”. [27]
Từ những điểm phân tích ở trên, có thể khẳng định NHTM là loại hình doanh
nghiệp được thành lập nhằm mục đích kinh doanh tiền tệ với chức năng, nhiệm
vụ được quy định rõ trong các văn bản điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng.
Để thấy rõ đặc điểm của hoạt động của NHTM, cần phân tích chức năng của
NHTM.
1.2.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có 3 loại chức năng chính là chức năng trung gian
tín dụng; chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền trong quá trình
lưu thông. [3]
Chức năng trung gian tín dụng
Xuất phát từ những cơ sở khách quan mà ngân hàng thương mại cũng như các
ngân hàng trung gian khác thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Đó là đặc
điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện
tượng trong cùng một lúc có những xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có vốn
tiền tệ tạm thời chưa sử dụng (như tiền bán hàng chưa mua nguyên vật liệu mới,
tiền trích khấu hao chưa sử dụng, tiền lương chưa đến kỳ trả,...). Ngược lại, có
những doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian
ngắn (như doanh nghiệp cần mua nguyên vật liệu nhưng chưa bán được sản
phẩm, cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhưng tiền tích
luỹ còn hạn chế...). Mâu thuẫn này cần được giải quyết để tăng hiệu quả sử dụng
vốn trong nền kinh tế và được thỏa mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp. Ngoài ra, do đặc thù yêu cầu của tiết kiệm và đầu tư: người tiết kiệm
không muốn rủi ro nhưng lại muốn có thu nhập cao còn người đầu tư lại muốn
có nguồn vốn cao và chi phí vay vốn thấp, cho nên cần phải có vai trò của người
trung gian để đáp ứng yêu cầu của cả 2 bên, đồng thời cũng do hạn chế trong
10
việc phân phối vốn một cách trực tiếp. Vì vậy ngân hàng cần đứng ra làm trung
gian để chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời.
Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này vì nó là một cơ quan chuyên trách,
chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình
cung cầu tín dụng. Đó là nơi mà khách hàng có thể tin tưởng được trong việc gửi
tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể
giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn cho vay và thời
gian cho vay.
Như vậy ngân hàng làm chức năng tín dụng khi nó là cầu nối giữa người có
vốn và người cần vốn. Chức năng này được thực hiện bằng cách huy động các
khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành quỹ cho vay của
nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay
dài hạn mà chủ yếu