Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ
sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với
một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được
lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Theo cách khác chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu hàng hoá là : việc đưa hàng
hoá ra thị trường nước ngoài để tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của
khách hàng nước ngoài
107 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2827 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược xuất khẩu ở công ty kinh doanh quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chiến lược xuất khẩu ở công ty
kinh doanh quốc tế
ChươngI:
Cơ sở lý luận của chiến lược xuất khẩu ở công ty kinh doanh quốc tế.
I. vai trò và Vị trí của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm và bản chất của xuất khẩu hàng hoá
a. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ
sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với
một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được
lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Theo cách khác chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu hàng hoá là : việc đưa hàng
hoá ra thị trường nước ngoài để tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của
khách hàng nước ngoài.
b. Bản chất của xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất
hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện
kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho tới hàng hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc
thiết bị cho tới công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu
đem lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong hoạt
động thương mại quốc tế. Nó có thể diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng
năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác
nhau.
Xuất khẩu hàng hoá là nguồn chính của thu nhập và chi tiêu quốc tế ở hầu hết các
quốc gia .Trong số các công ty tham dự vào một số dạng hoạt động thương mại quốc
tế, ngày càng có nhiều công ty hơn xâm nhập vào các hoạt động xuất khẩu hơn bất kỳ
loại giao dịch nào khác.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đầu tiên của một công ty quốc tế vì nó đòi hỏi
sự ràng buộc và sự rủi ro tối thiểu về những nguồn lực của công ty.
Xuất khẩu hàng hoá được tiếp tục ngay cả khi công ty đa dạng hoá phương thức
hoạt động. Hay nói cách khác, trong một số trường hợp xuất khẩu có thể bị gián đoạn
nhưng nó vẫn thường tiếp tục, hoặc bởi những hoạt động thương mại với các thị
trường khác hoặc bước sang những hoạt động thương mại mới.
2. Quan điểm chủ đạo của Nhà Nước và vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền
kinh tế thị trường.
a. Quan điểm chủ đạo của nhà nước vễ xuất khẩu hàng hoá
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại với
nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, căn cứ vào luật
tổ chức chính phủ ngày 39/09/1992, theo quy định của Bộ trưởng Bộ thương mại thì
chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam rất ưu tiên cho công tác xuất khẩu của các
doanh nghiệp. Các quy định và hướng dẫn chi tiết về việc này được ghi trong nghị
định 57 CP ngày 30/07/1998.
Việc quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu được thực hiện theo nguyên
tắc sau:
Tuân thủ luật pháp và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản xuất lưu
thông và quản lý thị trường .
Tôn trọng các cam kết với nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.
Đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo sự
quản lý của Nhà nước.
Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát
triển và mở rộng thị trường mới, xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà nước khuyến
khích xuất khẩu.
Bộ thương mại cùng uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ tài chính, ngân hàng Nhà
nước, các Bộ có liên quan trình Chính phủ danh mục mặt hàng khuyến khích xuất
khẩu, các chính sách và biện pháp để thực hiện các mục tiêu trên.
Nhằm khuyến khích xuất khẩu trường hợp các doanh nghiệp đã có giấy phép
kinh doanh xuất khẩu, những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục nghành hàng đã đăng
ký trong giấy phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xem xét
và giải quyết cụ thể từng hợp đồng xuất khẩu nhưng mặt hàng đó.
Đặc biệt trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ: Công nghiệp hoá
nông nghiệp và nông thôn trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa
dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho
xã hội, tạo nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị, phát triển các
nghành nghề , làng nghề truyền thống và các nghành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ
công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai
thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp.
b. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yêu cho nhập khẩu, phụ vụ công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Tại các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự phát triển
và tăng trưởng là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển. Nguồn vốn huy động
từ nước ngoài được coi là cơ sở chính như mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước
ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng xuất khẩu của đất nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này có
thể trả nợ được.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịnh cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển cơ cấu kinh tế trong quá
trình công nghiệp hoá ở nước ta hoàn toàn phù hợp với su thế phát triển của kinh tế
thế giơí.
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu có thể được
nhìn nhận theo các bước sau:
Xuất khẩu những sản phẩm của ta cho nước ngoài.
Xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những
sản phẩm mà nước khác cần. Điều đó có tác dụng trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành có liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu và cho sản
xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra các tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng
lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động
thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt
khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn
nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của
hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy mối quan hệ khác như : du lịch quốc tế,
bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế .v.v. phát triển theo.Ngược lại sự phát triển
của các nghành này lại là điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Đối với một doanh nghiệp :
Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng phát triển của các
doanh nghiệp. Việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ đem lại các lợi ích sau:
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Những yếu tố đó đòi
hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác
quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan
hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi,
tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong
hoạt động kinh doanh, tăng uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh
nghiệp. Chẳng hạn như việc đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản
xuất, marketing…, cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
II. Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu.
1. Khái niệm và các loại chiến lược Marketing xuất khẩu.
a. Khái niệm:
Một cách đơn giản nhất, chiến lược được hiểu là những kế hoạch được thiết lập hoặc
những hành động được thực hiện trong nỗ lực nhằm đạt tới các mục đích của tổ chức.
Như vậy, chiến lược được xem là những kế hoạch cho tương lai, tức là những
chiến lược được dự định và những hạn động được thực hiện, tức là những chiến lược
được thực hiện. Song, cho dù đó là chiến lược được dự định hay được thực hiện thì nó
đều phải hướng tới việc đạt được các mục tiêu, mục đích của tổ chức.
Quản trị chiến lược là quá trình nghiên cứu các mục tiêu hiện tại cũng như tương
lai, hoạch địch các mục tiêu của tổ chức. Đề ra, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện
các quyết định nhằm đạt được mục tiêu đó trong môi trường hiện tại hoặc tương lai.
Như vậy, quản trị chiến lược là một quá trình.
Chiến lược Marketing xuất khẩu là logic Marketing xuất khẩu mà nhờ đó, đơn vị
kinh doanh hy vọng đạt được các mục tiêu Marketing xuất khẩu của mình. Về nội
dung chiến lược Marketing xuất khẩu bao gồm: các chiến lược xác định đối với thị
trường mục tiêu, phối thức Marketing xuất khẩu và mức chi phí Marketing xuất khẩu.
Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu là toàn bộ việc hoạch định các hoạt
động Marketing xuất khẩu của doanh nghiệp từ việc đưa ra các mục tiêu cho tới việc
tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu đó. Có thể xem Quản trị chiến lược
Marketing xuất khẩu như một nghệ thuật thiết lập, thực hiện và đánh giá các quyết
định Marketing xuất khẩu giúp cho chủ thể ra quyết định đạt được mục tiêu nhất định.
Thực hiện tốt công việc Quản trị chiến lược Marketing nói chung và Quản trị
chiến lược Marketing xuất khẩu nói riêng sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nhiều vị
thế, nhiều lợi ích. Tuy nhiên, để đạt được sự thành công và phát huy được tác dụng thì
cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:
Chiến lược phải phù hợp với định hướng thị trường và kênh lưu thông.
Xác định rõ các mục tiêu chiến lược và phải được quán triệt thông báo cho toàn
thể mọi người trong doanh nghiệp nắm bắt và hiểu được mục tiêu kinh doanh ở
từng thời kỳ và cả kế hoạch dài hạn.
Tuyệt đối nhất quán với các mục tiêu chiến lược đã đề ra ban đầu.
Phải liên kết chặt chẽ, thống nhất giữa chức năng Marketing với các chức năng
khác của doanh nghiệp thương mại.
Cần phải kết hợp trực giác với phân tích dữ liệu thông tin. Nếu không quan tâm
đến dữ liệu thì thực chất chỉ là quản trị bàng quan, không phải quản trị theo trực
giác.Quản trị theo trực giác phải có sự rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm (kể cả
thành công và thất bại), kết hợp với thông tin cập nhật thì các quyết định quản trị
mới đem lại hiệu quả thực sự cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc cuối cùng là phải biết thích nghi với sự thay đổi, chủ động và lượng
hoá đủ các yếu tố biến động của thị trường thì quản trị chiến lược Marketing của
công ty mới thành công.
b. Chiến lược dự định và chiến lược thực hiện:
Như đã đề cập ngắn gọn ở phần khái niệm của chiến lược, cần thiết phải có sự
phân biệt giữa chiến lược dự định và chiến lược thực hiện: đó là những kế hoạch của
nhà quả trị đề ra và những hành động mà họ thực hiện trong thực tế.
Biểu hình 1 : Chiến lược dự định và chiến lược được thực hiện
Nguồn: H. Mintzberg and A. Water. “of Strategies. Delibery and Emergent”
Strategic Management Journal, 6, 1985.
Chiến lược dự định:
Với những mục đích và mục tiêu đã xác định, các nhà kinh doanh phải phát triển
các kế hoạch hành động của tổ chức, qua đó đạt tới các mục tiêu và mục đích đã đề
ra.Các chiến lược dự định là bộ tài liệu chứa đựng những thông tin mà tổ chức muốn
Chiến lược có cân
nhắc kỹ Chiến
lược dự
định
Chiến lược
được thực
hiện
Chiến
lược
không
được thực
Chiến
lược
nổi lên
thực hiện để đạt tới mục tiêu đã đề ra. Những thông tin này cũng như các chỉ dẫn cho
những phương tiện và công cụ mà tổ chức sẽ sử dụng.
Thông thường các chiến lược dự định bao gồm các kế hoạch và các chính sách. Các
kế hoach liên quan tới những hành động sẽ được thực hiện như tốc độ tăng trưởng, mở
rộng thị phần, gia tăng cạnh tranh hoặc phát triển công nghệ và nguồn lực…
Như vậy, chiến lược dự định của một tổ chức bao gồm những hoạt động mà tổ
chức dự định theo đuổi, thực hiện và những chính sách thể hiện những quy định,
những chỉ dẫn cho việc thực hiện những công việc do kế hoạch đặt ra.
Chiến lược thực hiện:
Trên thực tế, rất nhiều các chiến lược được ra nhưng không thực hiện. Điều này
có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân.
Trước hết, các chiến lược dù có tính toán và cân nhắc kỹ thì nó vẫn là sản phẩm
của con người, một khi không tính toán hết các nhân tố ảnh hưởng thì chiến lược dự
định sẽ không thể tồn tại được dưới thử thách khắc nghiệt của mội trường cạnh tranh
khốc liệt.
Thứ hai, thực tiễn quản trị chỉ ra rất nhiều các tổ chức quan tâm tới hoạch định
chiến lược, họ đề ra các chiến lược rất hay, tốn rất nhiều công sức, thời gian và tiền
bạc song lại không quan tâm tới tổ chức thực hiện nó.
Thứ ba, do không có kế hoạch thực hiện một cách có hiệu quả nên có nhiều chiến
lược dự định rất tốt đẹp cũng sẽ không được triển khai trong thực tiễn, hoặc thất bại
trong quá trình thực hiện – biến những ý định những ý tưởng thành hiện thực quả là
một việc làm khó khăn.
Từ những chiến lược được thực hiện ta thấy việc giám sát môi trường và phản ứng
nhanh chóng, có hiệu quả với sự thay đổi của môi trường, việc phát triển tổ chức, phát
triển người lao động và chức năng thực sự của người làm chủ, thực sự làm việc hết lòng
và làm việc có hiệu quả cho sự phát triển của tổ chức có một ý nghĩa rất quan trọng
trong điều kiện của một môi trường biến động và thay đổi rất nhanh như hiện nay.
2. Quá trình quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu:
Trước đây, quyết định chiến lược được thực hiện một lần cho một khoảng thời
gian dài, và nó là công việc của quản trị cấp cao. Hiện nay, quá trình quản trị chiến
lược là một quá trình thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự tham gia của tất cả các
thành viên trong tổ chức. Nói chung, quá trình quản trị chiến lược được thể hiện thông
qua biểu hình sau:
Xác định tầm
nhìn và sứ mạng
của tổ chức
Phân tích môi
trường bên
Phân tích môi
trường bên
Xác định các mục tiêu
chiến lược
Hình thành chiến
lược
Cấp công ty
Cấp kinh doanh
Cấp chức năng
Đưa chiến
lược vào hành
động và đạt
Cấu trúc tổ
chức và kiểm
soát.
Hoạch định
và phân bổ
các nguồn
a. Phân tích môi trường
Môi trường của một tổ chức được phân định thành môi trường bên ngoài và môi
trường bên trong. Phân tích môi trường hay còn gọi là phân tích SWOT là nhằm tìm ra
những cơ hội, đe dọa, điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức. Quản trị chiến lược là việc
tận dụng và phát huy các điểm mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu trong việc
khai thác các cơ hội và né tránh các đe doạ của môi trường. Vì vậy, gắn việc phân tích
môi trường nội bộ với môi trường bên ngoài sẽ tạo ra những gợi ý chiến lược cho sự
phát triển của công ty.
Phân tích môi trường bên ngoài
Nghiên cứu môi trường bên ngoài là một quá trình phải tiến hành thường xuyên,
liên tục không bao giờ dừng lại, vì nó chính là điều kiện đảm bảo sự thành công của
chiến lược. Mục đích của nghiên cứu môi trường bên ngoài là nhằm nhận dạng những
mối đe dọa cũng như những cơ hội có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Phân tích môi trường bên trong
Thực chất của quản trị chiến lược là việc tìm ra và phát triển các lợi thế cạnh
tranh, do đó việc hiểu biết môi trường nội bộ có một ý nghĩa to lớn. Phân tích môi
trường nộibộ là nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của công ty, qua đó xác
định các năng lực phân biệt và những lợi thế cạnh tranh của công ty. Bối cảnh để hiểu
rõ các điểm mạnh và điểm yếu của công ty là dây chuyền giá trị của công ty, tình hình
tài chính, văn hoá, tổ chức và lãnh đạo của công ty. Bàn về năng lực phân biệt và lợi
thế cạnh tranh hay những điểm mạnh và những điểm yếu của công ty tức là nói đến sự
so sánh các mặt, các hoạt động của công ty so với các nhà cạnh tranh. Sẽ là vô nghĩa
khi các phân tích nội bộ không gắn với việc so sánh một cách có ý nghĩa.
b. Xác định sứ mạng và mục tiêu
Xác định sứ mạng và mục tiêu là một trong những nội dung đầu tiên hết sức quan
trọng trong quản trị chiến lược, nó tạo cơ sở khoa học cho quá trình phân tích và lựa
chọn chiến lược công ty. Việc xác định bản tuyên bố về sứ mạng cho công ty được đặt
ra không chỉ đối với các công ty mới khởi đầu thành lập mà còn đặt ra đối với các
công ty đã có quá trình phát triển lâu dài trong ngành kinh doanh. Khi tổ chức mới
hình thành thì nó phải có tầm nhìn và sứ mạng, song sứ mạng có thể phải thay đổi khi
môi trường thay đổi. Vì vậy, việc xác định sứ mạng và mục tiêu được sẽ được trình
bày sau khi phân tích môi trường.
c. Hình thành chiến lược
Chiến lược cấp công ty
Tiến trình tăng trưởng và phát triển đặt công ty đứng trước sự chọn lựa về lĩnh vực
kinh doanh và thị trường. Quá trình tăng trưởng của công ty có thể bắt đầu từ tập trung
vào một lĩnh vực kinh doanh nào đó sau đó, thực hiện việc phát triển thị trường và tiến
hành đa dạng hóa.
Một quyết định quan trọng khi công ty lớn lên là có đa dạng hoá hay không? Khi
công ty chỉ kinh doanh một loại sản phẩm mà không tiến hành đa dạng hóa thì chiến
lược cấp công ty chính là chiến lược cạnh tranh (cấp kinh doanh). Việc tiến hành đa
dạng hóa các hoạt động của công ty có thể diễn ra là hội nhập dọc (về phía trước và về
phía sau) hoặc hội nhập ngang (đa dạng hóa đồng tâm và đa dạng hóa tổ hợp).
Khi công ty tiến hành đa dạng hóa thì việc sử dụng các phương pháp phân tích cấu
trúc kinh doanh sẽ đưa ra những gơị ý tốt cho định hướng hoạt động của các đơn vị
kinh doanh chiến lược. Có thể sử dụng ba phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh
đó là phương pháp BCG, phương pháp Mc. Kinsey và phương pháp dựa trên sự phát
triển của ngành.
Chiến lược cấp kinh doanh và chức năng
Để cạnh tranh một cách hiệu quả, công ty cần nhận dạng những cơ hội và đe dọa
trong môi trường kinh doanh ngành cũng như xây dựng và phát triển những năng lực
phân biệt nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh. Để chọn các chiến lược cạnh tranh trên cơ
sở các năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh, các nhà quản trị cần hiểu nền tảng của
chiến lược cạnh tranh, nguồn của lợi thế cạnh tranh, từ đó gắn nó với các chiến lược
đầu tư trong bối cảnh phát triển của ngành. Năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh
chỉ có thể được phát huy và phát triển khi các chức năng tạo ra sự cộng hưởng và mỗi
chức năng là một nhân tố quan trọng để tạo ra giá trị cho khách hàng.
Chiến lược cạnh tranh được hỗ trợ và bảo đảm bởi các chiến lược cấp chức năng.
Việc hình thành và phát triển các chiến lược chức năng phải tạo ra sự cộng hưởng các
chức năng nhằm phát huy và phát triển các lợi thế cạnh tranh của công ty. Các chiến
lược về Marketing, tài chính, vận hành, nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực phải
được thiết kế phù hợp với chiến lược cạnh tranh đã chọn, nhằm đạt tới các mục tiêu
của chiến lược cạnh tranh và công ty.
Chiến lược kinh doanh quốc tế
Đối với các công ty, trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn
thế giới hiện nay, việc thực hiện quốc tế hóa không còn là một lựa chọn nữa mà là tất
yếu. Thực hiện chiến lược quốc tế hóa chính là nhằm để khai thác và phát triển lợi thế
cạnh tranh của công ty. Việc tiến hành quốc tế hóa mang lại nhiều lợi ích to lớn cho
công ty, song nó cũng có rất nhiều điểm phức tạp do quy mô, địa lý và những khác
biệt về văn hóa, xã hội và chính trị.
Việc tiến hành quốc tế hóa các hoạt động đòi hỏi công ty phải xử lý các vấn đề về
chọn