Trên phạm vi thế giới, 3G bắt đầu được đưa vào khai thác thương mại một
cách rộng rãi kểtừ2001 với quốc gia thành công đầu tiên là Nhật Bản. Kểtừđó
đến nay đã có thêm rất nhiều quốc gia khác nghiên cứu và đưa 3G vào ứng dụng
trong đời sống hàng ngày.
Tại Việt Nam, cuộc thi tuyển cấp phép 3G do BộThông tin và Truyền thông
tổchức vào tháng 2/2009 đã chọn lựa ra 4 doanh nghiệp có tiềm năng, hứa hẹn
thúc đẩythịtrường dịch vụ3G sẽphát triển sôi động trong thời gian tới. Tính đến
thời điểm hiện tại, cả bốn nhà mạng được cấp giấy phép 3G gồm Vinaphone,
Mobifone,Viettel và liên minh EVN Telecom và Hanoi Telecom đều đã chính
thức triển khai cung cấp dịch vụ3G cho khách hàng của mình trên phạm vi cả
nước theo đúng cam kết.
Tuy nhiên, 3G ởViệt Nammới ởgiai đoạn đầu của quá trình phát triển. Các
hình thức sửdụng 3G tương đối đa dạng nhưng sựphát triển của 3G vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng đầu tư. Bên cạnh đó, cho đến nay chưa có tài liệu
nghiên cứu khoa học nào đánh giá cụthểvềsựphát triển cũng như các kết quả
đạt được của 3G tại Việt Nam. Mặt khác, cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực, cụthểlà BộThông tin và Truyền thông cũng chưa xây dựng mộtchính sách
cụthểnào đểthúc đ ẩy sựphát triển 3G tại Việt Nam. Chính vì thế, cần có cơ chế,
chính sách ra sao đểthúc đẩy3G phát triển tại thịtrường viễn thông Việt Nam là
một bài toánđòi hỏi phảicó sựnghiên cứu kỹlưỡng đểcó lời giải đáp thỏa đáng.
Đây cũng chính là lý do emchọn thực hiện đềtài “Chính sách thúc đẩy phát triển
dịch vụ3G cho thịtrường viễn thông Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹchuyên
ngành Quản trịkinh doanh tại Học viện Công nghệBưu chính Viễn thông.
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2279 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách thúc đẩy phát triển dịch vụ 3G cho thị trường viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
---------------------------------------
NGUYỄN ĐỨC MẠNH
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ 3G
CHO THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 60.34.05
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
HÀ NỘI, NĂM 2011
2
Luận văn được hoàn thành tại
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
Phản biện 1: ..........................................................................
.........................................................................
Phản biện 2: ..........................................................................
.........................................................................
Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn
tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
Vào lúc: ..... giờ ..... ngày ..... tháng ..... năm .....
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên phạm vi thế giới, 3G bắt đầu được đưa vào khai thác thương mại một
cách rộng rãi kể từ 2001 với quốc gia thành công đầu tiên là Nhật Bản. Kể từ đó
đến nay đã có thêm rất nhiều quốc gia khác nghiên cứu và đưa 3G vào ứng dụng
trong đời sống hàng ngày.
Tại Việt Nam, cuộc thi tuyển cấp phép 3G do Bộ Thông tin và Truyền thông
tổ chức vào tháng 2/2009 đã chọn lựa ra 4 doanh nghiệp có tiềm năng, hứa hẹn
thúc đẩy thị trường dịch vụ 3G sẽ phát triển sôi động trong thời gian tới. Tính đến
thời điểm hiện tại, cả bốn nhà mạng được cấp giấy phép 3G gồm Vinaphone,
Mobifone, Viettel và liên minh EVN Telecom và Hanoi Telecom đều đã chính
thức triển khai cung cấp dịch vụ 3G cho khách hàng của mình trên phạm vi cả
nước theo đúng cam kết.
Tuy nhiên, 3G ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Các
hình thức sử dụng 3G tương đối đa dạng nhưng sự phát triển của 3G vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng đầu tư. Bên cạnh đó, cho đến nay chưa có tài liệu
nghiên cứu khoa học nào đánh giá cụ thể về sự phát triển cũng như các kết quả
đạt được của 3G tại Việt Nam. Mặt khác, cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực, cụ thể là Bộ Thông tin và Truyền thông cũng chưa xây dựng một chính sách
cụ thể nào để thúc đẩy sự phát triển 3G tại Việt Nam. Chính vì thế, cần có cơ chế,
chính sách ra sao để thúc đẩy 3G phát triển tại thị trường viễn thông Việt Nam là
một bài toán đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để có lời giải đáp thỏa đáng.
Đây cũng chính là lý do em chọn thực hiện đề tài “Chính sách thúc đẩy phát triển
dịch vụ 3G cho thị trường viễn thông Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ chuyên
ngành Quản trị kinh doanh tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng phát triển cũng như những bất cập trong quá trình phát
triển 3G tại Việt Nam; từ đó đề xuất chính sách thúc đẩy phát triển 3G cho
thị trường viễn thông Việt Nam.
- Xây dựng tư liệu tham khảo mang tính khoa học phục vụ cho công tác tham
mưu hoạch định chính sách, ban hành cơ chế quản lý của cơ quan quản lý
chuyên ngành, đồng thời là cơ sở tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp
cung cấp, khai thác 3G tại thị trường viễn thông Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: thị trường viễn thông nói chung và thị
trường 3G Việt Nam nói riêng
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các điều kiện phát triển 3G tại thị trường
viễn thông Việt Nam và cứu chính sách thúc đẩy phát triển dịch vụ trên nền
3G, không bao gồm chính sách đối với lĩnh vực sản xuất thiết bị phần cứng
3G.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu cơ bản: Phương pháp thu thập -
tổng hợp thông tin, phương pháp phân tích, đánh giá.
5. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Tổng quan về 3G và chính sách phát triển viễn thông Việt Nam
Chương 2: Hiện trạng phát triển 3G và các chính sách đã được xây dựng có
liên quan đến phát triển 3G
Chương 3: Đề xuất chính sách thúc đẩy phát triển dịch vụ 3G cho thị trường
viễn thông Việt Nam
5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ 3G VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG
VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ 3G
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 3G
1.1.1.1. Lịch sử hình thành công nghệ 3G
Thế hệ thứ nhất (1G): Mạng di động thế hệ thứ nhất khơi mào ở Nhật vào
năm 1979. Đây là hệ thống truyền tín hiệu tương tự (analog). Tuy chưa hoàn hảo
về mặt công nghệ và kỹ thuật, thế hệ thông tin di động 1G này thực sự là một mốc
phát triển quan trọng của ngành viễn thông. Những điểm yếu nổi bật của thế hệ
1G liên quan đến chất lượng truyền tin kém, vấn đề bảo mật và việc sử dụng tài
nguyên tần số kém hiệu quả.
Thế hệ thứ hai (2G): Đến những năm 1980 hệ thống thông tin thế hệ thứ
nhất đã trở nên quá tải khi nhu cầu về số người sử dụng ngày càng tăng lên, là
động lực cho sự ra đời của hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 2. Hệ thống
mạng 2G được đặc trưng bởi công nghệ chuyển mạch kỹ thuật số (digital circuit-
switched). Kỹ thuật này cho phép sử dụng tài nguyên băng tần hiệu quả hơn nhiều
so với 1G. Hầu hết các thuê bao di động trên thế giới hiện đang dùng công nghệ
2G này.
Thế hệ di động thứ ba (3G):
Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ dữ liệu đã đặt ra các yêu mới đối
với công nghệ viễn thông di động. Thông tin di động thế hệ thứ hai mặc dù sử
dụng công nghệ số nhưng là hệ thống băng hẹp và được xây dựng trên cơ chế
chuyển mạch kênh nên không thể đáp ứng được yêu cầu về băng thông của các
dịch vụ mới. Trong bối cảnh đó ITU đã đưa ra đề án tiêu chuẩn hóa hệ thống
thông tin di động thế hệ thứ 3 với tên gọi IMT-2000. IMT-2000 đã mở rộng đáng
kể khả năng cung cấp dịch vụ và cho phép sử dụng nhiều phương tiện thông tin.
Mục đích của IMT-2000 là đưa ra nhiều khả năng mới đồng thời đảm bảo sự phát
triển liên tục của hệ thống thông tin di động thế hệ thứ hai (2G) vào những năm
2000. IMT-2000 sau này được gọi là 3G, và điểm nổi bật nhất của mạng 3G so
với mạng 2G nằm ở khả năng cung ứng truyền thông gói tốc độ cao nhằm triển
khai các dịch vụ truyền thông đa phương tiện trên mạng di động.
Do có nhiều chuẩn công nghệ cho 2G nên sẽ có nhiều chuẩn công nghệ 3G đi
theo, tuy nhiên trên thực tế chỉ có 02 tiêu chuẩn quan trọng nhất đã có sản phẩm
thương mại và có khả năng được triển khai rộng rãi trên toàn thế giới là WCDMA
và CDMA 2000.
Cùng với đó, Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đã và đang làm việc để
hướng tới một chuẩn cho mạng di động tế bào mới thế hệ sau 3G (có thể gọi là
thế hệ 4G).
6
1.1.1.2. Hiện trạng phát triển của 3G trên thế giới
Tính đến 2009, 8 năm sau khi hãng viễn thông Nhật Bản NTT Docomo ra
mắt mạng 3G đầu tiên (năm 2001), số thuê bao 3G CDMA2000 trên toàn thế giới
đã đạt mức 500 triệu.
Theo một nghiên cứu mới đây của Tập đoàn Qualcomm, tổng số thuê bao 3G
trên thế giới đến hết Q1/2010 đã vượt con số 1 tỷ. Dự tính đến 2013, thế giới sẽ
có khoảng 2,5 tỷ thuê bao 3G, trong đó, riêng khu vực châu Á có khoảng 1 tỷ
thuê bao.
CDMA2000 tiếp tục củng cố vị trí của mình trên thị trường như là công nghệ
3G dẫn đầu thế giới, cung cấp các dịch vụ di động băng rộng và thoại cho nhiều
thị trường khác nhau. Nó cũng là một thành phần không thể thiếu đối với các dịch
vụ băng rộng di động hội tụ thế hệ kế tiếp. Đến Q2/2010, CDMA2000 đã có 547
triệu người sử dụng trên thế giới, trong đó 148 triệu người dùng các dịch vụ và
thiết bị EV-DO (chiếm 27%). Tốc độ tăng trưởng hàng năm của EV-DO đạt mức
khá cao, khoảng 21%. Nhờ thành tựu phát triển đó, CDMA2000 chiếm khoảng
51% thị phần 3G toàn thế giới. Dự báo CDMA2000 sẽ còn tiếp tục phát triển
mạnh và đạt khoảng 829 triệu thuê bao vào năm 2015.
Bên cạnh CDMA2000, hiện trên thế giới có khoảng hơn 300 mạng UMTS,
trong đó có hơn 35 mạng HSPA đang hoạt động, với hơn 200 triệu khách hàng.
Nói cách khác, gần 40% thuê bao 3G trên thế giới hiện đang được sử dụng công
nghệ truyền tải dữ liệu tốc độ cao HSPA.
1.1.2. Khái niệm và phân loại dịch vụ 3G
Khái niệm 3G
3G là một chuẩn của ITU cho công nghệ truyền thông di động thế hệ thứ ba
(dịch vụ truyền thông di động tương tự là thế hệ đầu tiên, dịch vụ truyền thông cá
nhân kỹ thuật số PCS là thế hệ thứ hai).
Cụ thể hơn, thuật ngữ 3G là viết tắt của “third generation - thế hệ thứ 3” và
dịch vụ 3G biểu thị cho công nghệ truyền thông dữ liệu đa phương tiện và thoại
tốc độ cao, cho phép các thiết bị di động có thể kết nối Internet băng rộng mà
không phải ở gần điểm phát sóng (wireless hotspot).
Phân loại dịch vụ 3G
Có nhiều cách phân loại dịch vụ 3G tùy theo mục đích và nhu cầu của đối
tượng thực hiện. Qua điều tra của một số hãng nghiên cứu thị trường, nổi lên một
vài xu hướng cho dịch vụ 3G Việt Nam: Social Media (Facebook, Blog), Mobile
Broadband, Mobile TV, điện thoại truyền hình, nhạc mobile và dịch vụ định vị
toàn cầu.
Theo các xu hướng này, có bảy nhóm dịch vụ mà các nhà cung cấp có thể
chia thành bảy gói dịch vụ: Gói dịch vụ truy nhập Internet – Mobile Broadband;
Gói truyền thông xã hội – Email, Mobile chat, chia sẻ dữ liệu; Gói dịch vụ giải trí
– Mobile TV, mobile music, nhạc chờ; Gói dịch vụ Everyday Life – quảng cáo
qua mobile, dịch vụ thông tin, lưu trữ liên lạc; Gói dịch vụ liên lạc – Video
7
Telephony, push to talk; Gói dịch vụ định vị; Gói dịch vụ kinh tế: thanh toán qua
mobile, chuyển tiền qua mobile, ví tiền mobile, dịch vụ tài chính qua mobile.
1.1.3. Sự cần thiết phát triển 3G tại Việt Nam
Vai trò của thông tin, truyền thông nói chung và 3G nói riêng đối với sự
phát triển kinh tế, xã hội
Vai trò của viễn thông nói chung đã được khẳng định trong tư tưởng chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước và thể hiện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn
bản chỉ đạo điều hành chuyên ngành.
Trên thực tế, sau 10 năm phát triển (2000 - 2010), lĩnh vực công nghệ thông
tin và truyền thông Việt Nam đã có những thay đổi vượt bậc, và đạt được nhiều
kết quả ngoạn mục, trở thành ngành kinh tế-kỹ thuật rất quan trọng của đất nước,
có mức tăng trưởng hàng năm gấp từ 3-4 lần mức tăng trưởng GDP và đóng góp
khoảng 6,7% GDP của cả nước. Mục tiêu đến năm 2020, tỷ trọng CNTT-TT đóng
góp vào GDP đạt từ 8 - 10 %; tốc độ tăng trưởng doanh thu hằng năm đạt từ 2-3
lần tốc độ tăng trưởng GDP trở lên (mục tiêu Đề án "Đưa Việt Nam sớm trở thành
nước mạnh về CNTT-TT”). Cùng với CNTT, viễn thông trở thành nền tảng để các
ngành khác phát triển đột. Những thành tựu đó đã đóng góp một vai trò quan
trọng cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Vai trò của 3G đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống người dân
Theo nghiên cứu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, công dân ở các nước đang
phát triển (trong đó có Việt Nam) thường có xu hướng khai thác sức mạnh của
truy cập di động để nâng cao chất lượng cuộc sống. Đạo luật tái đầu tư và phục
hồi năm 2009 của Mỹ cũng nhận định rằng nếu một quốc gia đầu tư 1USD cho
băng rộng thì nền kinh tế sẽ hưởng lợi gấp 10 lần số vốn đầu tư ban đầu.
Internet băng rộng có vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với cuộc sống hàng
ngày của con người. Trong sự phát triển của Internet băng rộng, 3G lại là một
trong những nhân tố chính góp phần thúc đẩy mạnh mẽ, đặc biệt là với nhóm
khách hàng hay di chuyển hoặc nhóm khách hàng tại những vùng miền mà việc
kéo dây cáp gặp nhiều khó khăn, tốn kém như các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo.
Tại Việt Nam, 3G cùng với Internet băng rộng nói chung đã, đang và sẽ tiếp
tục góp phần làm thay đổi phương thức sống, phương thức làm việc của người
dân. 3G hay băng rộng di động đang dần hiện thực hóa khả năng kết nối mọi lúc,
mọi nơi, cho phép con người làm việc, giải trí bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu. Với sự
phát triển không ngừng, 3G cùng băng rộng di động đang thâm nhập ngày một
sâu hơn vào các mặt của đời sống thông qua các dịch vụ chất lượng cao, điển hình
là các dịch vụ công trực tuyến đang được quan tâm và đẩy mạnh phát triển ở Việt
Nam.
8
1.2. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG VIỆT
NAM
1.2.1. Chính sách mở cửa thị trường, phát huy nội lực
Mở cửa thị trường là một chính sách hết sức quan trọng bởi Việt Nam đã
chính thức tham gia các tổ chức khu vực cũng như quốc tế là ASEAN, APEC,
WTO. Hầu hết những nước thành viên thuộc các tổ chức này đều đi theo nền kinh
tế thị trường cạnh tranh ở mức độ cao. Điều đó đã đặt ra đòi hỏi các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải chủ động phát triển các nguồn lực đặc biệt là nguồn nhân lực,
nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể hội nhập thành công với nền kinh tế khu
vực cũng như thế giới.
Tuy nhiên việc mở cửa thị trường cần được thực hiện theo một lộ trình khoa
học phù hợp với từng giai đoạn phát triển và điều kiện của Việt Nam. Lộ trình mở
cửa này tuân theo nguyên tắc sau: mở cửa cạnh tranh đối với các dịch vụ viễn
thông trong nước trước rồi mới đến các dịch vụ viễn thông quốc tế. Cũng tương
tự như vậy thực hiện cạnh tranh đối với các dịch vụ gia tăng giá trị trước và các
dịch vụ cơ bản sau, đồng thời cũng mở các dịch vụ di động trước rồi mới đến các
dịch vụ cố định.
1.2.2. Chính sách cổ phần hóa
Nhằm phát huy nội lực, chính phủ Việt Nam có chính sách khuyến khích sự
tham gia của các thành phần kinh tế vào việc phát triển công nghiệp viễn thông
đất nước. Để có thể huy động được vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác
nhau, chính phủ đã cho phép cổ phần hóa một số công ty và doanh nghiệp nhà
nước trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Cán bộ công nhân viên thuộc các công
ty và doanh nghiệp này được ưu tiên mua cổ phiếu do công ty hay doanh nghiệp
của họ phát hành. Điều này tạo điều kiện cho người lao động trở thành những chủ
sơ hữu của doanh nghiệp và như vậy sẽ dễ dàng nâng cao được hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp đó.
Thông qua tiến trình cổ phần hóa, Việt Nam cũng khuyến khích các thành
phần kinh tế khác nhau của đất nước tham gia xây dựng hạ tầng cơ sơ thông tin
quốc gia. Các nguồn lực và vốn đầu tư cần được huy động trong toàn quốc và từ
các nhà đầu tư nước ngoài phục vụ cho việc phát triển hạ tầng cơ sơ thông tin và
các ứng dụng cũng như dịch vụ trên đó.
1.2.3. Chính sách phổ cập dịch vụ
Một trong nhữmg mục tiêu phát triển viễn thông của Việt Nam là tạo ra hàng
loạt dịch vụ viễn thông phong phú về hình thức, giàu về nội dung và tốt về chất
lượng đáp ứng nhu cầu của khách hàng mọi lúc, mọi nơi bất kể thành phố đô thị
hay vùng sâu vùng xa. Để thực hiện được mục tiêu này thì tất cả các doanh
nghiệp viễn thông đều có trách nhiệm đóng góp cho việc phát triển cơ sơ hạ tầng
viễn thông ơ vùng sâu, vùng xa, nơi mà việc kinh doanh có thể không có lãi.
9
Chính sách này tạo ra sự công bằng và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp bưu chính viễn thông đồng thời đảm bảo quyền lợi của người
sư dụng là được sư dụng các dịch vụ viễn thông ơ bất cứ nơi đâu trên đất nước.
Trong giai đoạn trước đây chỉ có VNPT đảm đương nghĩa vụ dịch vụ công
ích. Hiện nay, theo các quy định hiện hành, Quỹ dịch vụ viễn thông công ích đang
là đầu mối thực hiện các chương trình, dự án viễn thông công ích; tất cả các nhà
khai thác viễn thông đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dịch vụ phổ cập thông
qua cơ chế cấp phép và phân chia cước kết nối theo Quyết định số 186/2007/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi Quyết định số 191/2004/QĐ-TTg).
1.2.4. Chính sách thúc đẩy cạnh tranh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do tính đặc
thù của dịch vụ và mạng lưới viễn thông, ban đầu không nhiều quốc gia chấp
nhận mở cửa thị trường viễn thông cho cạnh tranh. Một số quốc gia không cho
phép cạnh tranh đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản và cung cấp cơ sở hạ tầng
viễn thông. Thực tế cung cấp dịch vụ viễn thông trong môi trường cạnh tranh ở
Việt Nam và trên thế giới đã chứng tỏ những lợi ích mà cạnh tranh mang lại đối
với sự phát triển của lĩnh vực viễn thông nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
- Cạnh tranh góp phần thúc đẩy mở rộng loại hình và phạm vi cung cấp dịch
vụ
- Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy nâng cao chất lượng dịch vụ
- Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy các nhà khai thác giảm giá cước dịch vụ để
hấp dẫn khách hàng
10
Chương 2
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN 3G TẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHÍNH SÁCH
ĐÃ ĐƯỢC XÂY DỰNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN 3G
2.1. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG DI ĐỘNG VÀ 3G TẠI
VIỆT NAM
2.1.1. Hiện trạng phát triển hạ tầng, mạng lưới viễn thông di động
Hạ tầng mạng viễn thông di động là một phần của hạ tầng mạng viễn thông
nói chung. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài hạ tầng mạng viễn thông dùng riêng phục
vụ an ninh, quốc phòng và các cơ quan Đảng, Nhà nước thì hạ tầng mạng viễn
thông công cộng trong đó có liên quan tới mạng di động bao gồm:
- Mạng truyền dẫn quốc tế
- Mạng truyền dẫn trong nước
- Mạng chuyển mạch
- Mạng truy nhập
Trực tiếp liên quan đến hạ tầng mạng di động, tính đến hết quý II/ 2010, cả
nước có hơn 76.000 trạm BTS, trong đó số trạm BTS 2G chiếm khoảng 74,4% và
còn lại là trạm BTS 3G. Vùng phủ của sóng di động 2G đã đạt 95% theo diện tích
và 100% theo dân cư, cung cấp dịch vụ tại 63/63 tỉnh thành cả nước. Bên cạnh đó,
mạng di động 3G mặc dù mới được triển khai xây dựng chưa lâu nhưng đã đạt
được một số kết quả nhất định: vùng phủ sóng 3G đạt 85% diện tích lãnh thổ và
phủ tới gần 90% dân cư.
Bảng 2.1: Hiện trạng phát triển hạ tầng mạng viễn thông di động
TT Chỉ tiêu Tính đến 30/6/2010
1 Số trạm BTS 2G 56.645
% theo dân cư 100% Vùng phủ sóng 2G % theo diện tích 95%
2 Số trạm BTS 3G 19.500
% theo dân cư 85% Vùng phủ sóng 3G % theo diện tích 89.6%
Nguồn: Báo cáo của các doanh nghiệp viễn thông
2.1.2. Hiện trạng phát triển thị trường, dịch vụ viễn thông di động
Theo Tổng cục thống kê, đến cuối tháng 7/2010, Việt Nam đã có khoảng
140,3 triệu thuê bao di động, tăng gần 43% so với 98,2 triệu thuê bao cuối 2009.
Trong đó, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT có số lượng thuê bao
di động lớn nhất với 71,2 triệu thuê bao, tương đương gần 50,8% thị phần; tiếp
đến là Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel có khoảng 50 triệu thuê bao (tương
đương 35,5% thị phần); còn lại 19,1 triệu thuê bao là của các doanh nghiệp viễn
thông còn lại.
11
2.1.3. Hiện trạng phát triển 3G tại Việt Nam
2.1.3.1. Hiện trạng xây dựng, phát triển mạng lưới
Tính đến thời điểm Q2/2010, Viettel đã lắp đặt được khoảng 10.500 trạm
BTS NodeB và VNPT có khoảng 6.500 trạm, trong đó có 4.000 trạm của
Vinaphone và 2.500 trạm của MobiFone, liên danh EVN Telecom/Hanoi Telecom
có 2.500 trạm. Lãnh đạo của Viettel cho biết, đến cuối năm 2010, số trạm BTS
NodeB của doanh nghiệp này sẽ đạt con số 17.000 trạm và bước tiếp theo Viettel
sẽ lắp thêm 10.000 trạm BTS 3G và nâng số trạm BTS 3G của mạng này lên con
số 27.000 trạm vào quý I/2011.
Vùng phủ sóng 3G của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam tính đến hết
quý II/2010 đã đạt 85% theo dân cư và đạt gần 90% theo diện tích.
2.1.3.2. Hiện trạng phát triển dịch vụ và thuê bao 3G
Đến thời điểm hiện tại, tất cả các nhà mạng được cấp giấy phép 3G đều đã
cung cấp dịch vụ một cách thương mại hóa đến người dùng trên cả nước. Tuy
nhiên, hầu hết những dịch vụ 3G đang được ưa chuộng và dùng nhiều hiện nay là
những dịch vụ không mất phí, giá trị gia tăng thấp (truy cập thông tin, mạng xã
hội, giải trí…); những dịch vụ có giá trị gia tăng cao, đem lại tiện ích góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân thì chưa được chú ý (cụ thể là nhóm
dịch vụ ít/chưa hình thành thị trường như ở bảng dưới đây). Bên cạnh đó, các dịch
vụ 3G mới chủ yếu phát triển tại khu vực thành thị còn khu vực nông thôn cũng
như vùng xa, biên giới, hải đảo có tỉ lệ rất nhỏ thuê bao sử dụng dịch vụ 3G.
Trong khi nông thôn là mảng thị trường còn nhiều tiềm năng cho 3G