Luận văn Chính sách tiền tệ - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện Chính sách tiền tệ tại Việt Nam

Việt Nam-Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương trình ổn định hoá nền kinh tế tạo tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước.Kết quả đó một phần nhờ nhà nước đã sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ(CSTT) có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như:công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, giá cả,lạm phát. Chúng ta phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và từng bước hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với nền kinh tế đang chuyển dần sang kinh tế thị trường.Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập ngày một sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày một sâu sắc,CSTT của VN đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Nói như vậy có nghĩa là ở VN, hệ thống NH nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng vẫn là một lĩnh vực cần được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy nghiên cứu CSTT và các công cụ điều hành CSTT ởVN là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở nước ta,khi nền KTTT đang được xác lập và phát triển. Trên cơ sở đó em đã quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam” Bài viết gồm 4 phần: Phần I: Vai trò của NHNN trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Phần II: Vận dụng hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện nay Phần III: Thực trạng và những tồn tại từ hoạt động của chính sách tiền tệ Việt Nam Phần IV: Giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam

pdf43 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2272 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện Chính sách tiền tệ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện Chính sách tiền tệ ở Việt Nam Lời mở đầu: Việt Nam-Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương trình ổn định hoá nền kinh tế tạo tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước.Kết quả đó một phần nhờ nhà nước đã sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ(CSTT) có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như:công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, giá cả,lạm phát... Chúng ta phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và từng bước hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với nền kinh tế đang chuyển dần sang kinh tế thị trường.Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập ngày một sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày một sâu sắc,CSTT của VN đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Nói như vậy có nghĩa là ở VN, hệ thống NH nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng vẫn là một lĩnh vực cần được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy nghiên cứu CSTT và các công cụ điều hành CSTT ởVN là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở nước ta,khi nền KTTT đang được xác lập và phát triển. Trên cơ sở đó em đã quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam” Bài viết gồm 4 phần: Phần I: Vai trò của NHNN trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Phần II: Vận dụng hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện nay Phần III: Thực trạng và những tồn tại từ hoạt động của chính sách tiền tệ Việt Nam Phần IV: Giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam Phần I: Vai trò của NHNN trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Thế kỷ XX mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử hình thành ngân hàng trung ương(NHTƯ). Năm 1920, hội nghị tài chính và tiền tệ quốc tế lần đầu tưiên được mở ra ởBrusel nhấn mạnh rằng: Những quốc gia nào chưa có một NHTƯ thì nên sớm có bởi vì một NHTƯ không những thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia, cung ứng và điều tiết tiền tệ, bảo vệ giá trị đòng tiền quốc gia và quản lý hoạt động ngân hàng mà còn tạo nhiều thuận lợi trong quan hệ quốc tế về thương mại, tài chính và hợp tác kinh tế. Trong vòng 30 năm tiếp theo hàng loạt các NHTƯ khắp thế giới đã ra đời củng cố vai trò quan trọng của thiết NHTƯ trong điều tiết, vận hành và phát triển kinh tế. Cũng chính vì thế đã có người từng nói:Nếu như kinh thánh bắt đầu với sự sáng tạo ra Trời và Đất,thì CSTT cũng bắt đầu tưừ NHTƯ. Để hiểu rõ vai trò của NHTƯ trong việc thực hiện các mục tiêu của CSTT trước hết ta phải tìm hiểu về các mục tiêu của chính sách tiền tệ. I-Mục tiêu của chính sách tiền tệ: 1/ Khái niệm: Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước do NHTƯ chịu trách nhiệm khởi thảo và thực thi thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. 2/ Các mục tiêu của chính sách tiền tệ: Là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, CSTT hướng tới các mục tiêu vĩ mô sau 2.1:Mục tiêu cuối cùmg: 2.1.1: ổn định giá cả: ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của CSTT.Trong quá trình thực nghiệm cho thấy để ổn định giá cả phải ổn định giá trị đồng tiền,ổn định giá trị đồng tiền là ổn định sức mua của tiền tệ.Để đạt được điều đó NHTƯ đã đề ra mục tiêu trong chính sách tiền tệ là ổn định chỉ số giá cả. Để thực hiện mục tiêu ổn định giá cả NHTƯ có nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền bằng cách áp dụng nhiều biện pháp để điều chỉnh sự biến động giá cả trong phạm vi mong muốn cả về ngắn và dài hạn. ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vĩ mô cũng như vi mô.Nó giúp cho nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả.Mặt khác nó còn giúp cho môi trường đầu tưư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tưư,khai thác mọi nguồn lực xã hội,thúc đẩy các DN cũng như các cá nhân phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như cho xã hội 2.1.2: Tăng trưởng kinh tế cao: Nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định là yêu cầu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho sự ổn định của tiền tệ.Ngược lại tiền tệ ổn định thì tăng trưởng kinh tế mới bền vững Có thể nói, đây là một mục tiêu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nước,đặc biệt là các nước đang phát triển.Bởi lẽ muốn phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập để từ đó cải thiện đời sống con người thì trước hết nền kinh tế phải có tăng trưởng cao. Chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian nào đó của một quốc gia có thể được xác định theo một trong hai hướng:Chính sách tiền tệ mở rộng và CSTT thắt chặt Khi NHTƯ thi hành CSTT mở rộng trong điều kiện nền kinh tế có dư thừa nguồn lực, thì nó sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế theo 2 chiều hướng: -Khi khối tiền tệ gia tăng, tức là tiền tệ trỏ nên dồi dào hơn trước thì nhìn chung lãi suất hạ, cầu đầu tưư sẽ tăng lên nhanh chóng. -Do chi phí để có tiền giảm đồng thời việc giảm lãi suất làm cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền giảm xuống đã khuyến khích dân chúng tiêu dùng nhiều hơn làm cho tổng cầu tăng lên.Khi đó hoạt động thương mại trên thị trường trở nên nhộn nhịp, hàng tồn đọng của các DN được giải quyết và các nhà DN quyết định mở rộng đầu tưư để tăng sản lượng. Như vậy việc tăng khối tiền tệ của NHTƯ không những làm tăng cầu tiêu dùng mà còn làm tăng câù tiêu đầu tưư, nhờ đó khuyến khích tăng sản lượng quốc gia hay là tăng trưởng kinh tế. Vì vậy tăng trưởng kinh tế cao chính là một mục tiêu quan trọng của CSTT Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế thường không tránh khỏi hiện tượng lạm phát.Khi nền kinh tế phát triển quá nóng,sản lượng thực tế vượt quá sản lượng tiềm năng,tỷ lệ lạm phát thường cao.Để chống lạm phát NHTƯ phải “thắt chặt”CSTT.Cũng vẫn bằng các công cụ điều tiết trong tay,NHTƯ đã làm cho lượng tiền cung ứng giảm xuống, lãi suất tăng, giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm,lạm phát bị đẩy lùi. Như vậy về ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng, việc làm có quan nệ đánh đổi cho nhau.Cho nên việc tăng,giảm cung ứng tiền tệ ở mức độ nào có thể kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả nhưng vẫn đảm bảo có tăng trưởng và công ăn việc làm cao là bài toán khó trong việc hoạch định và điều hành CSTT của các quốc gia 2.1.3 Tạo công ăn việc làm: Việc làm cao cho người lao động là một mục tiêu kinhtế-xã hội của mọi quốc gia hiện nay.Nếu xã hội có ít công ăn việc làm,tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ dẫn đến hậu quả là sự lãng phí về các nguồn lực làm giảm sản lượng quốc gia, hơn nữa còn làm giảm thu nhập trong dân chúng gây khó khăn cho đời sống của họ.Vì vậy việc làm cao là một trong những yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển CSTT có vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.Chẳng hạn khi nền kinh tế của một quốc gia đang ở trong tình trạng suy thoái.Tình hình lúc đó là sản xuất ở dưới mức tiềm năng, đầu tưư giảm, kéo theo tình trạng thất nghiệp gia tăng. Để thoát khỏi tình trạng đó, NHTƯ quyết định thi hành CSTT “mở rộng” Với các công cụ điều tiết trong tay trong tay, NHTƯ sẽ làm cho cung tiền tăng lên lãi xuất giảm xuống nhờ đó mà khuyến khích đầu tưư. Hơn nữa sau thời kỳ suy thoái tiền công thường giảm thấp dẫn đến thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng sản xuất tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện CSTT mở rộng sẽ khuyến khích đầu tưư tạo nhiều công ăn việc làm với cái giá phải trả là lạm phát tăng. Ngược lại, khi NHTƯ thi hành CSTT thắt chặt thì đầu tưư giảm sút và thất nghiệp gia tăng. Rõ ràng trong quá trình điều tiết vĩ mô, khi NHTƯ quyết định thay đổi CSTT từ thắt chặt sang mở rộng thì một trong những mục tiêu phải đạt được của CSTT là tạo ra công ăn việc làm cao trong xã hội 2.1.4) ổn định thị trường tài chính Theo Fried Man-Nhà kinh tế học người Mĩ thì tạo ra một nền tài chính ổn định để hệ thống NHTM và các TCTD khác có thể hoạt động một cách có hiệu quả là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài các mục tiêu trên NHTƯ với các công cụ của CSTT có thể góp phần ổn định thị trường tài chính và làm lành mạnh hoá các quan hệ tiền tệ tín dụng trong nền kinh tế. Bởi lẽ hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng không phải lúc nào cũng thuận lợi. Đặc biệt có những lúc ngân hàng lâm vào cuộc khủng hoảng nào đó, dân chúng sẽ đổ xô tới các ngân hàng để rút tiền về. Sự rút tiền ồ ạt đó có thể dẫn đến các ngân hàng thiếu khả năng chi trả. Chính vào thời điểm khó khăn đó,NHTƯ sẽ thông qua việc cho vay chiết khấu để cung cấp các khoản tiền dự trữ cho các NHTM. Nhờ vậy mà các NHTM có đủ khả năng đối phó với các dòng tiền rút ra và tránh được nguy cơ phá sản. không những thế,khi cần thiết NHTƯ còn có thể ngăn chặn được khả năng phá sản của các tổ chức tài chính Như vậy, thông qua việc cho vay chiết khấu, NHTƯ thực hiện được vai trò “người cho vay cuối cùng” nhằm ngăn chặn những vụ hoảng loạn về ngân hàng hoặc tài chính, tránh được những tổn hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, nhờ đó mà thị trường tài chính được ổn định Với những mục tiêu kinh tế vĩ mô kể trên,CSTT thực sự được coi là một công cụ đầy quyền uy của NHTƯ trong việc điều tiết kinh tế nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh .2) Mục tiêu trung gian: Thông qua mục tiêu trung gian NHTƯ ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng. Để được chọn là mục tiêu trung gian thì phải thoả mãn một số yêu cầu: Mục tiêu đó phải đảm bảo tiêu chuẩn định lượng, có thể đưa ra dấu hiệu giúp ngân hàng trung ương biết được tác động của mình là đúng hay sai, NHTƯ phải kiểm soát và chi phối được mục tiêu này để đạt được mục tiêu cuối cùng. Và điều quan trọng là nó phải có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng của CSTT Các mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ, lãi suất thị trường trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng. Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hoặc lãi suất tiền tệ làm mục tiêu trung gian của CSTT Với các mục tiêu trung gian NHTƯ không thể chủ đọng tác động một cách hoàn toàn vì vậy NHTƯ phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp 2.3) Mục tiêu hoạt động Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTƯ lựa chọn để so cho khi NHTƯ sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì các mục tiêu đó phải mang tính định lượng, có thể đo lường được, chỉ tiêu đó phải hết sức nhạy cảm với sự biến động của CSTT và phải tác động đến mục tiêu trung gian. II- Vai trò của NHTƯ trong xây dựng và thực hiện CSTT: Trong 15 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo NHNN từng bước đổi mới vững chắc, góp phần xứng đáng trong những thành tựu của nền kinh tế đạt được: Mức tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, ổn định và kiểm soát lạm phát, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Ngày nay CSTT ngày càng trở nên quan trọng, đối với hoạt động của các NHTƯ, không ít các quốc gia đã xác định mục tiêu hoạt động của NHTƯ cũng là mục tiêu của CSTT. Vì vậy,việc nâng cao vai trò của NHNN trong xây dựng và thực thi CSTT có ý nghĩa quan trọng để góp phần đổi mới, hoàn thiện NHNN trong thời gian tới Thực trạng vai trò của NHNN: - Thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo quy định tại Điều 1 của Luật NHNN 12/1997 “ Hoạt động NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, gốp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Như vậy mục tiêu đầu tưiên đặt ra đối với hoạt động của NHNN chính là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Trong những năm qua, với những nỗ lực mới, NHNN tiếp tục góp phần xứng đáng trong thành công ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của nhiều khó khăn như ảnh hưởng của thiên tai, khủng hoảng tiền tệ châu á... - Xây dựng dự án CSTT quốc gia để chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này -NHNN là cơ quan của chính phủ và là NHTƯ của nước cộng hoà XHCN Việt nam. Trên thực tế, NHNN được coi như một bộ đặc thù trong chính phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt nam, mô hình này có ưu điểm: + Trong cơ chế Đảng lãnh đạo và chính phủ quản lý thống nhất toàn diện các mặt đời sống, kinh tế xã hội thì việc Thống đốc NHNN là thành viên của chính phủ và có sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ đối với các hoạt động của ngân hàng + Trong khi nền kinh tế Việt nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi, chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế kinh tế thị trường thì với vị trí là một Bộ trong chính phủ, NHNN có thể giúp việc đắc lực hơn cho chính phủ. Điều này có nghĩa là góp phần được nhiều hơn vào công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước + Trong bất cứ sự phát triển nào đều phải trải qua các giai đoạn, nếu chuyển ngay sang một mô hình tổ chức hoàn toàn khác thì chẳng những các cơ quan, đơn vị có liên quan chưa chấp nhận, gây ách tắc trong việc phối hợp lẫn nhau, mà bản thân NHNN cũng chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để theo cơ chế hoạt động hoàn toàn mới Một số vấn đề còn bất cập: -Vai trò tương đối hạn chế: Vì NHNN là thành viên của chính phủ nên NHNN không thể trực tiếp trình dự án CSTT quốc gia trước Quốc hội mà phải thông qua chính phủ. - Chưa thực sự chủ động trong thực thi CSTT Định kỳ lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm đều đã được chính phủ chỉ định để chi cho các mục tiêu cụ thể vì vậy NHNN khó có thể chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Còn khá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo, giám sát xây dựng và thực hiện CSTT. ý kiến đề xuất: - Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ. Hàng năm, chính phủ duyệt lượng tiền bổ xung cho lưu thông, nhưng không phải chỉ xuất phát từ nhu cầu cho chi tiêu ngân sách NN mà phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, của điều hành CSTT để NHNN cố thể chủ động trong công tác phát hành tiền phục vụ thực hiện tốt CSTT. -Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện CSTT của NHNN. Tập trung mọi nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là các nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào hệ thống ngân hàng không để tình trạng phân tán các nguồn vốn tín dụng lamf cho NHNN không kiểm soát được nguồn vốn này và vì thế không thể điều tiết lượng tiền cung ứng tring lưu thông. -Hạn chế sự can thiệp quá sâu đói với NHNN của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động và thực hiện CSTT. NHNN cần được chủ động và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chính phủ về thực hiện CSTT. Các cơ quan, tổ chức không can thiệp quá sâu vào hoạt động của NHNN. - Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ trong chính phủ và bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTW của đất nước nên giảm dần một số nhiệm vụ thuộc chức năng một bộ quản lý nhà nước thuần tuý, cũng như bộ chủ quản đói với các TCTD Nhà nước. III- Sự lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ: Trong những năm gần đây, các nhà kinh tế có chung một quan điểm rằng mục tiêu bao trùm và lâu dài của CSTT là ổn định giá cả. Tuy vậy, câu hỏi luôn được đặt ra là phải thức thi CSTT như thế nào để đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Có 4 giải pháp CSTT đã được các quốc gia áp dụng là: Chính sách tiền tệ lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu. CSTT lấy chỉ số lạm phát làm mục tiêu. CSTT lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu. CSTT sử dụng một “ mốc neo “ ẩn danh nghĩa. Mốc neo danh nghĩa: Là sự hạn chế đối với giá trị của đồng nội tệ và nó là một yếu tố cần thiết đói với sự thành công của việc thực thi các giải pháp CSTT khác nhau. 1/ CSTT lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu: CSTT lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu là một giải pháp có lịch sử khá lâu dài. Chính sách này có thể được thực thi dưói dạng gắn giá trị của đồng nội tệ vào một loại hàng hoá như vàng. Đây là đặc điểm chủ yếu của chế độ bản vị vàng. Có đồng tiền được đồmg tiền của nước kia gắn vào. Hơn thế nữa, tỉ giá mục tiêu có nghĩa là các cú sốc đối với các nước có đồng tiền được đòng tiền nước khác gắn vào sẽ lan truyền sang nước ấy vì những thay đổi về laĩ xuất ở nước có đồng mạnh sẽ dẫn đến thay đổi về lãi xuất ở nước có đồng tiền yếu. Tỉ giá mục tiêu có bất lợi là nó xoá bỏ tín hiệu mà tiền tệ ngoại hối hàng ngày đưa ra về quan điêmr CSTT. Dưới chế độ tỉ giá mục tiêu, các NHTW thường thoe đuổi chính sách mở rộng quá mức mà không được phát hiện ra trước khi đã muộn khi các cuộc tấn công của các nhà đầu cơ đang diễn ra. Hơn nữa tỉ giá mục tiêu sẽ làm cho các nước áp dụng CSTT này dễ bị các cuộc đầu cơ đồng tiền của nước ngoài tấn công. Một bất lợi nữa của CSTT là do không biết chắc chắn về giá trị tương lai của đòng tiền bản tệ nên nhiều doanh nghiệp phi tài chính và chính phủ ở các nước tiên tiến mới nổi thích phát hành trái phiếu vay nợ nếu đó được định giá bằng ngoại tệ. 2/ CSTT lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu: ở nhiều nước, do không thực thi đựoc CSTT lâý tỉ giá làm mục tiêu vì đất nước của họ quá lớn hoặc không xác định đước đồng tiền của nước nào mà đồng bản tệ của mình có thể gắn vào. Do vậy các nước này phải thực thi giải pháp CSTT lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu. Ưu điểm của chính sách tiền tệ này là nó cho phép NHTW điều chỉnh CSTT của mình đáp ứng vứi các chính sách trong nước khác nó có thể cho phép NHTW lựa chọn các mục tiêu lạm phát khác với mục tiêu lạm phát của các nước khác và cũng cho phép NHTW phản ứng lại với các biến động của sản lưọng. Việc lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu cũng có lợi thế là thúc đẩy lòng tin vào CSTT nhằm kìm hãm mức lạm phát thấp và giúp hạn chế các nhà hoạch định CSTT rơi vào cái bẫy của lạm phát tình thế. Tuy nhiên những lợi thế của CSTT này phụ thuộc vào mối quan hệ đáng tin cậy và mạnh mẽ giữa biến số mang tính mục tiêu và biến số mục tiêu. Nếu có sự bất ổn về vòng quay đồng tiền đến mức làm yếu đi mối quan hệ giữa đại lượng tiền tệ và biến số mục tiêu thì việc CSTT lấy đại tiền tệ làm mục tiêu sẽ không thực hiện được. Như vậy CSTT lấy đại lượng tiền tệ làm mục tiêu sẽ không giúp chấn chỉnh tâm lý lạm phát và nó sẽ là một thước đo đánh giá trách nhiệm của NHTW. 3/ CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu: Lạm phát nói chung tác động xấu đến nền kinh tế nên kiểm soát lạm phát là mục tiêu ưu tiên của chiónh phủ khi thi hành các CSTT. Trước đây, CSTT thường được điều khiển bởi việc dựa trên các mục tiêu trung gian như khối lượng tiền tệ hoặc ỉt giá hối đoái. Nhưng trong thập kỉ 80truyền thống đó đã bị phá vỡ khi có 7 nước công nghiệp vừa và nhỏ đã điều hành CSTT của mình bằng cách đặt trọng tâm vào chính mục tiêu lạm phát. Giải pháp CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu có lợi thế quan trọng so với 2 giải pháp trên đó là nó giúp cho CSTT tập trung cào những cân nhắc về những chính sách trong nước khác và giúp cho việc đối phó với các cú sốc trong nước. Ngoài ra nó còn có một lợi thế nữa là công chúng rất dễ dàng hiểu được giải pháp CSTT của NHTW và giải pháp này có tính minh bạch cao. Do mục tiêu lạm phát bằng con số rõ ràng sẽ tăng tính trách nhiệm của NHTW, CST