Luận văn Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu Tiếng Việt

Câu là đơn vị ngôn ngữ được ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ngữ pháp cổ điển cũng như một số khuynh hướng ngôn ngữ học hiện đại như cấu trúc luận, ngữ pháp tạo sinh coi câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu ngữ pháp thường chú trọng về đặc trưng cấu trúc của câu. Nói cách khác, câu chủ yếu được xem xét trên bình diện ngữ pháp với các vấn đề như: các thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo ngữ pháp của câu và các quan hệ ngữ pháp trong câu. Kết quả nhiều vấn đề về câu chưa được giải quyết đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến nghĩa và hoạt động hành chức của câu. Xuất phát từ chức năng giao tiếp và một phần lí thuyết dụng học về sự tương tác ngôn từ (phần liên quan đến ngữ pháp), ngữ pháp chức năng không chỉ chú ý đến mặt hình thức mà còn chú ý đến mặt nghĩa và mặt chức năng của ngôn ngữ. Với ngữ pháp chức năng, các hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ phápngữ nghĩa- ngữ dụng, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa

pdf126 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4190 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Đức CHỨC NĂNG CÚ PHÁP CỦA MỘT SỐ VAI NGHĨA TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Câu là đơn vị ngôn ngữ được ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ngữ pháp cổ điển cũng như một số khuynh hướng ngôn ngữ học hiện đại như cấu trúc luận, ngữ pháp tạo sinh coi câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu ngữ pháp thường chú trọng về đặc trưng cấu trúc của câu. Nói cách khác, câu chủ yếu được xem xét trên bình diện ngữ pháp với các vấn đề như: các thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo ngữ pháp của câu và các quan hệ ngữ pháp trong câu. Kết quả nhiều vấn đề về câu chưa được giải quyết đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến nghĩa và hoạt động hành chức của câu. Xuất phát từ chức năng giao tiếp và một phần lí thuyết dụng học về sự tương tác ngôn từ (phần liên quan đến ngữ pháp), ngữ pháp chức năng không chỉ chú ý đến mặt hình thức mà còn chú ý đến mặt nghĩa và mặt chức năng của ngôn ngữ. Với ngữ pháp chức năng, các hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ pháp- ngữ nghĩa- ngữ dụng, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa. Từ khuynh hướng nghiên cứu này, câu không chỉ được coi là đơn vị cấu trúc mà còn là đơn vị của ngôn ngữ được con người trực tiếp sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, câu không phải là thứ câu trừu tượng mà gắn với tình huống ngữ cảnh cụ thể, đó là câu- phát ngôn. Ở đây, câu được xem xét đồng thời trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học- dụng học. Bình diện kết học chủ yếu xem xét cấu trúc cú pháp của câu với nhiệm vụ trung tâm là xác định các chức năng cú pháp trong câu. Bình diện kết học được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với bình diện nghĩa học của câu. Ngữ pháp chức năng đã cho thấy rõ mối quan hệ giữa cấu trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa (nghĩa miêu tả) của câu. Đó là mối quan hệ giữa một bên là nội dung (cấu trúc nghĩa) và một bên là hình thức (cấu trúc cú pháp) của câu. Các chức năng cú pháp của câu thực chất là do các vai nghĩa chi phối khi chúng được hiện thực hóa trong câu. Gần đây, giới Việt ngữ học đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề vai nghĩa trong mối quan hệ với chức năng cú pháp của các thành phần câu và kết quả đạt được tương đối khả quan. Một số công trình nghiên cứu bước đầu đã khảo sát và lý giải về mối quan hệ giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở một số vai nghĩa và chức năng cú pháp tương ứng trong câu. Tiếp thu những thành tựu đó, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ của vai nghĩa với chức năng cú pháp trong câu. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này có các ý nghĩa sau đây: - Về mặt lý luận: Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học cú pháp, đặc biệt là cấu trúc nghĩa của câu, tìm hiểu khái niệm vai nghĩa (tham tố của vị từ), chọn một số vai nghĩa phổ biến trong cấu trúc nghĩa của câu, miêu tả những chức năng cú pháp ứng với các vai nghĩa này. - Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể có giá trị tham khảo về cấu trúc nghĩa, cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Luận văn có thể góp thêm ngữ liệu cho việc nghiên cứu, học tập về ngữ pháp tiếng Việt. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Việc nghiên cứu các vai nghĩa Việc nghiên cứu về vai nghĩa có thể nói là được bắt đầu khá sớm. Đầu tiên, chúng ta phải kể đến lý thuyết diễn trị của nhà ngôn ngữ học người Pháp L.Tesnière. L.Tesnière được biết đến với tác phẩm chính là Elements de syntaxe structurale được xuất bản vào năm 1959. Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra khái niệm diễn trị (valence) và các khái niệm có liên quan khác trong đó có diễn tố (actants) và chu tố (circumstants) vào nghĩa học của cú pháp. “Cú pháp dựa trên nghĩa học”(semantically based syntax) của L.Tesnière đã khiến ông trở thành một trong những người sáng lập ra lý thuyết diễn trị (valency theory) – cách phân tích câu dựa trên cấu trúc nghĩa của các vai (role) [Dẫn theo 44: 4]. Theo ông, “Cấu trúc cú pháp của câu xoay quanh vị từ và các diễn tố (actants) làm bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là một trong các bổ ngữ đó. Mỗi vị từ biểu hiện “một màn kịch nhỏ”, nó có một diễn trị (valence) riêng được thể hiện trong số lượng các diễn tố của nó [Dẫn theo 23: 81]. Các vị từ khác nhau cơ bản về số lượng các diễn tố trong vị ngữ. Điều này có nghĩa là dựa trên tiềm lực cú pháp- ngữ nghĩa của vị từ để phân loại chúng thành: - Vị từ vô trị (avalents) không có diễn tố nào trong câu và vì vậy mà (ngữ đoạn) vị từ là phương tiện từ vựng- cú pháp duy nhất biểu hiện sự tình. Ví dụ như vị từ pleut, il pleut ‘mưa’ không có diễn tố nào. - Vị từ đơn trị (monovalents) có một diễn tố, ví dụ như: tomber ‘ngã’. - Vị từ song trị (bivalents) có hai diễn tố, ví dụ như: frapper ‘đánh’. - Vị từ tam trị (trivalents) như donner ‘cho’ L.Tesnière đã phân biệt diễn tố và chu tố- cái vẽ nên bối cảnh (setting)- và các chi tiết phụ họa (incidental details) của các sự tình mà vị từ miêu tả; vì vậy mà toàn bộ một câu vẽ nên một màn kịch nhỏ (mini drama) và diễn đạt trực tiếp một sự tình trọn vẹn. Công trình này của L.Tesnière là theo quan điểm cú pháp dựa trên nghĩa học và về nguyên tắc diễn tố do vị từ quy định còn chu tố là yếu tố phụ mang tính tiềm năng có trong bất kỳ câu nào, bất chấp vị từ với kiểu diễn trị gì đang thực sự chiếm giữ vị trí trung tâm của vị ngữ trong câu. Chính vì dựa trên nguyên tắc như vậy mà L.Tesnière đã đơn giản hóa vấn đề: ông khẳng định mã hóa diễn tố- cái yếu tố bắt buộc phải đi kèm theo vị từ trong vị ngữ của câu- là danh ngữ, còn trạng ngữ mã hóa chu tố- cái yếu tố không bắt buộc phải hiển lộ trong câu. Đây chính là hạn chế của L.Tesnière. Nhưng đóng góp của L.Tesnière và những người kế tục ông là đã đưa lý thuyết diễn trị mà ông tìm ra những tiềm năng cú pháp ngữ nghĩa khác nhau của cùng một vị từ. Ngữ pháp truyền thống trước đó cũng đã nhận ra tiềm năng cú pháp của vị từ nhưng lại chỉ phân chia chúng chủ yếu thành ra vị từ ngoại động và vị từ nội động. Vấn đề vai nghĩa còn được làm rõ bởi C.J. Fillmore, khoảng trước sau 1970, C.J. Fillmore viết một loạt bài trong đó nổi tiếng nhất là bài mang tên “The case for case” (Tác dụng của cách) được công bố năm 1968. Trong bài viết của mình, Fillmore chủ trương rằng có thể xác định một tập hợp các mối quan hệ giữa một vị từ và các tham tố (arguments) của nó. Fillmore làm rõ thuật ngữ cách như sau: “ Đó là những quan hệ ngữ nghĩa- cú pháp ngầm, được giả định tạo nên một tập hợp hoàn chỉnh, tồn tại ngầm đối với những ngôn ngữ có vĩ tố, và dạng thức cách của các mối quan hệ cách vẫn là sự biểu đạt trong ngôn ngữ có thể thực hiện được nhờ những phụ tố, hoặc nhờ các giới từ, hoặc với các cách khác” [Dẫn theo 30: 27]. Các mối quan hệ mà Fillmore gọi là quan hệ cách (case relationships) này theo ông có tính chất phổ quát và có số lượng hữu hạn. Fillmore đã giới thiệu 6 cách sau: - Agentive (Tác cách), chỉ vai chủ thể của hành động do động từ biểu thị. - Instrumental (Công cụ cách), chỉ vai công cụ của hành động do động từ biểu thị. - Dative (Tặng cách), chỉ vai động vật chịu ảnh hưởng của trạng thái hay hành động do động từ biểu thị. - Factitive (Hành cách), chỉ vai của vật sinh ra do kết quả của trạng thái hay hành động do từ biểu thị. - Locative (Vị trí), chỉ vị trí của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị. - Objectice (Đối tượng), là cách trung hòa nhất về nghĩa, chỉ bất kỳ vật gì được biểu thị bằng một danh từ mà vai trò trong hành động hay trạng thái được động từ biểu thị được chính cách thuyết minh nghĩa của động từ quy định.[Dẫn theo 30: 28] Trong các công trình tiếp theo, Fillmore [1971 và 1977] dần bổ sung thêm một số cách “cách”, tức là các “vai nghĩa”, khác: - Counter- Agent (Lực tác động) là sức mạnh hay sức đối kháng qua đó hành động mà vị từ biểu thị được tiến hành. - Source (Nguồn) là điểm xuất phát của hành động hay chuyển động. - Experiencer (Kẻ thể nghiệm hay Nghiệm thể) tương đương với Cảm thể (Senser) của M. A. K. Halliday [1994: 117-119] [Dẫn theo 44: 6-7] - Undergoer (Người/Vật trải qua sự biến) tương đương với Processed (Động thể) của một số tác giả sau Fillmore. Trong suốt thập kỉ 70 và thập kỉ 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu ngữ pháp cách (case grammar) khác được biết đến ở một chừng mực nào đó chúng độc lập với nhau và độc lập với công trình được coi là đi tiên phong của Fillmore. Trong số những công trình này phải kể đến W. Chafe [1970], J.M. Anderson [1971], J.T. Platt [1971], R. E. Longacre [1976], M. Clark [1978], W. A. Cook [1978], S.C. Dik [1978], T. Givón [1984] và S. Starosta [1988]. Sau đây xin được điểm qua một số bộ vai nghĩa nằm trong các công trình của giai đoạn này: Đầu tiên là tác giả R. E. Longacre [1976] đưa ra bộ vai nghĩa gồm Experiencer (Nghiệm thể), Patient (Đối thể), Agent (Tác thể), Range (Cương vực), Measure (Biện pháp), Instrument (Công cụ), Locative (Định vị), Source (Nguồn), Goal (Mục tiêu), Path (Lối đi). Công trình nghiên cứu của W. A. Cook [1978] nêu ít vai hơn trong bộ nghĩa của mình, gồm: Agent (Tác thể), Experiencer (Nghiệm thể), Benefactive (Lợi thể), Object (Đối thể), Locative (Định vị). S. Starosta [1988] cũng trình bày một bộ vai nghĩa khác gồm Patient (Đối thể)-một tên gọi khác của Object hay theme, Agent (Tác thể), Locus (Địa điểm), Correspondent (Tiếp thể)- một tên gọi khác của Dative hay Experiencer, và means (Phương tiện). T. Givón [1984: 126-133] trình bày hai loại vai nghĩa trong các câu- các vai nghĩa chính (major semantic case- roles) và các vai nghĩa tùy chọn (optional case- roles)- và khẳng định “các vai nghĩa chính bắt buộc xuất hiện trong một số kiểu câu. Nghĩa là sự hiện diện của chúng là quan yếu xét về mặt cú pháp hoặc ngữ nghĩa để giải thích nghĩa cốt lõi của vị từ.” Dưới đây là bảng tóm tắt những vai nghĩa chính được trình bày trong công trình của T.Givón: - Agent (Tác thể) chỉ người/ vật chủ ý bắt đầu một sự tình. - Dative (Tiếp thể) chỉ tham thể có nhận thức tiếp nhận một sự việc/trạng thái. - Patient (Đối thể) chỉ trạng thái hoặc sự thay đổi của trạng thái vô ý thức. - Locative (Định vị thể) chỉ một điểm cụ thể so với một vị trí hay sự thay đổi vị trí của một tham tố khác trong câu Các vai nghĩa tùy chọn của Givón gồm có: - Benefactive (Lợi thể) chỉ tham tố có nhận thức được hưởng lợi từ hành động hay sự việc do Tác thể khởi xướng. - Instrument (Công cụ) chỉ công cụ được Tác thể sử dụng để thực hiện hành động hoặc tạo ra sự tình hoặc trạng thái hiện có. - Associative (Liên hội thể) chỉ Đồng tác thể (Co- agent) hay Đồng tiếp thể (Co- dative) không phải là tiêu điểm chính trong câu. - Manner (Phương thức) chỉ kiểu hiện trạng của một sự tình. - Time (Thời gian) gồm cả Duration (Thời đoạn), Repetition (sự lặp lại) và Frequency (Sự thường xuyên). - Purpose (Mục đích) chỉ mục đích của hành động mà Tác thể khởi xướng. Trong số các tác giả tiêu biểu phải kể đến S. C. Dik. Trong công trình Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar) [1978], tác giả đã trình bày khái niệm vị ngữ hạt nhân (nuclear predication) và vị ngữ mở rộng (extended predication). Theo Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy các vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà (với nó) vị từ được ứng dụng.” [14: 39] “Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu vị ngữ hạt nhân đó.” [14: 39] Cũng theo S.C. Dik [1978], chức năng ngữ nghĩa của chu tố bao gồm: - các chỉ định phụ thêm cho sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ; - các quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, Liên đới thể; - các quan hệ của sự tình trong các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số; - Các quan hệ của sự tình trong các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương hướng, Lối đi; - Các quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục đích, Kết quả. [14: 40-41] S.C. Dik [1978] đã có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn chỉnh hai khái niệm lớn trong lĩnh vực “vai nghĩa”: Tham tố bắt buộc (obligatory participants) hay diễn tố (actants) và tham tố tùy chọn (optional participants) hay chu tố (circumstants). Đồng thời, Dik còn chỉ ra sự chuyển đổi của chu tố thành diễn tố trong một số vị ngữ. Như vậy mối quan hệ giữa vị ngữ mở rộng và vị ngữ hạt nhân là mềm dẻo chứ không cố định hay cứng nhắc. Một đại diện khác là M. A. K. Halliday đã dựa vào mục tiêu chính của ngữ pháp chức năng là giải thích ngôn ngữ dựa trên cái mà con người hành xử với sự hỗ trợ chính của ngôn ngữ, nghĩa là con người sử dụng ngôn ngữ như thế nào để giao tiếp trong cuộc sống đời thường hàng ngày. Ngữ pháp chức năng hệ thống cố gắng đạt được mục tiêu này bằng cách chấp nhận một số định hướng mang tính ngữ nghĩa và ngữ dụng cao hơn trong ngữ pháp, tức là coi nghĩa học và dụng học như những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tổ chức của ngữ pháp. Halliday xử lí vấn đề hệ thống tổ chức của ngữ pháp này bằng cách khẳng định rằng ngữ pháp của các ngôn ngữ sẵn có trên thế giới đều được tổ chức nhằm biểu đạt trong cùng một câu ba loại nghĩa mà ông gọi là ba “siêu chức năng (metafunctions)” [Halliday,1994: 35]: Nghĩa ý niệm (ideational meaning), nghĩa liên nhân (interpersonal meaning) và nghĩa văn bản (textual meaning) [Halliday, 1985: 53 và 1994: 34]. Đây là chỗ được coi là nổi bật trong ngữ pháp chức năng của Halliday, cái mà ông gọi có tính hệ thống (systemic) và vì vậy mà có thể được ứng dụng để miêu tả nhiều, nếu không muốn nói là tất cả, ngôn ngữ trên thế giới. Cuốn “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” được tái bản lần thứ hai năm 1994 của Halliday, có thể nói, đã trình bày bộ vai nghĩa đầy đủ hơn cả so với bộ vai nghĩa của các tác giả khác được trình bày ở trên. [Dẫn theo 44: 11] 2.2. Việc nghiên cứu các vai nghĩa (hay tham tố) trong Việt ngữ học. Hai tác giả Trần Trọng Hải [1972] và Nguyễn Đăng Liêm [1973] đều theo quan điểm của Fillmore và cùng trình bày “một bộ quan hệ cách” gồm Agentive (Tác thể), Objective (Đối thể), Dative (Tiếp thể), Instrument (Công cụ), Benefactive (Lợi thể), Commitative (Liên đới thể), Locative (Định vị), Directional (Hướng), Source (nguồn), Goal (Đích), Extent (Phạm vi), và Time (Thời gian). [Dẫn theo 44:12] Tác giả M. Clark [1978] đưa ra một bộ vai nghĩa tương tự: đổi một cách tương ứng các vai Locative, Directional và Goal, của Trần Trọng Hải và của Nguyễn Đăng Liêm thành Locative, Goal và Terminus và thêm vai Path (Lối đi). Đóng góp của Clark [1978: 19] là chỉ rõ rằng “hình thái cách” (case form) là một đặc điểm đặc trưng hóa một tập hợp của những kiểu đánh dấu cách (case markers), chính là những kiểu hiện thực hóa của các quan hệ cách (case relations), và rằng “những kiểu đánh dấu cách trong tiếng Việt là trật tự từ và giới từ”. [Dẫn theo 44: 12] Chúng ta cũng biết vấn đề nghiên cứu vai nghĩa là vấn đề mới ở Việt Nam nên nó mới chỉ được đề cập tới ở một số công trình nghiên cứu gần đây về ngữ pháp chức năng hoặc các công trình ngữ pháp có vận dụng tư tưởng của ngữ pháp chức năng. Nhưng theo tác giả Cao Xuân Hạo, năm 1983 ông Trương Vĩnh Ký xuất bản cuốn Grammaire de la langue annamite đã có đề cập đến vấn đề ngữ pháp cách. Với mục đích giúp người phương Tây hiểu ngữ pháp tiếng Việt, ông đã miêu tả cách biểu hiện các quan hệ ngữ pháp trong khung vị ngữ của câu bằng những thuật ngữ của các cách tiếng Latin. Các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có thể kể ở vào một trong 8 cách, đó là: Ý nghĩa cách Phương thức diễn đạt 1. Nominatif (Danh cách) 2. Gesnitif (Sinh cách, sở hữu cách) 3. Datif (Tặng cách, Dữ cách) 4. Accusatif hay Objectif (Đối cách) 5. Vocatif (Hô cách) 6. Ablatif (Tác cách, Ly cách) 7. Instrumental (Công cụ cách) 8. Locatif (Vị trí cách) Ø- (không đánh dấu) của / Ø cho Ø- (không đánh dấu) ớ- bớ khỏi- bởi bằng nơi, trong Ông Trương Vĩnh Ký cho rằng “tiếng Việt không có cách hiểu theo nghĩa hẹp như tiếng Latin. Vì cách là sự biến hình trong vĩ tố của từ tùy theo cái vai trò mà nó đảm đương trong câu; nhưng trong tiếng Việt, cái mà sự biến hình ấy chỉ rõ lại được biểu hiện bằng những tiểu tố tiền vị, và dĩ nhiên đó không phải là cách thực sự. Tuy nhiên sự phân chia theo từng cách là tiện lợi và chính xác; dù danh từ cách không thích hợp và đúng đắn, song ông vẫn dùng nó theo phép loại suy cho dễ hiểu và định nghĩa cách là những vị trí khác nhau của một danh từ tùy theo cái cương vị làm chính hay bổ ngữ cho một từ khác”. Đối với từng cách, ông cho biết có thể diễn đạt ý nghĩa của cách ấy bằng những phương tiện gì khác phương tiện chủ yếu. Như khi nói về công cụ cách, bên cạnh “Cột bằng dây”, ông còn cho “Dùng dây mà cột”, “Lấy dây mà cột”. Điều này cho thấy rằng khi dùng khái niệm cách, ông hiểu nó như ý nghĩa ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp. Như vậy ông không chỉ gán mô hình ngữ pháp tiếng Latin cho tiếng Việt mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức sử dụng khái niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỷ sau các nhà ngôn ngữ học phương Tây mới nghĩ đến. Hạn chế của ông Trương Vĩnh Ký là điều dễ hiểu vì vào thời gian đó người ta chưa biết chú ý đến nghĩa của câu, và chưa biết rằng cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ nhân loại, mà mọi thứ tiếng trên trái đất đều phải có cách diễn đạt và phân biệt. Tuy nhiên có thể nói ông Trương Vĩnh Ký là người đi trước các nhà ngôn ngữ học trong việc mô tả các phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong ngôn ngữ không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu và được xem là người tiên phong trong việc xây dựng nền Ngữ pháp cách tiếng Việt. Tiếp theo phải kể đến tác giả Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu “Mô hình ngôn ngữ” [1977] và “Ngôn ngữ học: khuynh hướng- lĩnh vực- khái niệm”[1986], tác giả đã giới thiệu một số vấn đề về ngữ pháp cách như sau: a. Sự nhầm lẫn của Chomsky khi đem phạm trù ngữ pháp (NP, VP) xếp lẫn với chức năng ngữ pháp (trạng ngữ thời gian và nơi chốn). b. Fillmore đặt vấn đề cần phải coi trọng hơn nữa những phạm trù sâu không nổi lên bề mặt nhưng có thể phát hiện được bằng các thao tác cú pháp. Cơ sở của nó là lý thuyết về các cách (The Case for Case). c. Thuật ngữ “Cách” và ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ. d. Hệ thống cách mang tính phổ quát đối với mọi ngôn ngữ gồm có các cách: 1. Tác nhân (Agent): kẻ hành động, ví dụ : Ba làm vỡ cửa sổ. 2. Người cảm nhận (Experiencer): kẻ chịu đựng, trải qua một tình huống về tâm lý, tình cảm, nó đối lập với tác nhân. Ví dụ: Tôi lạnh. 3. Công cụ (Instrument): công cụ, nguyên nhân trực tiếp của sự kiện. Ví dụ: Tôi dùng dao thái khoai. 4. Đối tượng (Object): đối tượng chịu tác động. Ví dụ: Bé Hai lớn như thổi. 5. Vị trí (Lieu): nơi xảy ra hành động. Ví dụ: Xoa đầu ai. 6. Gốc (Root): từ điểm đó, nơi đó, người đó mà định hướng đến nơi khác. Ví dụ: Cô Ba bán hoa. 7. Đích (Goal): nơi đó người ta thực hiện hành động. Ví dụ: Tâm mắng Ba. 8. Kết quả (Result): vật nảy sinh nhờ kết quả của hành động. Ví dụ: Cô Ba làm bánh. 9. Thời gian (Time): thời gian xảy ra hành động,. Ví dụ: Mùa đông lạnh. Tác giả Nguyễn Đức Dân nhận xét rằn
Luận văn liên quan