Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên
đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần
đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có
quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ
về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng
không nhỏ trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, ngày 15
tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh
vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005
đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau cần phải sáng tỏ như:
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau về chứng
cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều luật, từ Điều 79 đến
Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, luật sư. có
cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và vấn đề chứng
minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một loại chứng cứ,
có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật
sư có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.
67 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6063 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chứng cứ và vấn đề chứng minh
trong Bộ luật Tố tụng dân sự
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên
đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần
đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có
quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ
về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng
không nhỏ trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, ngày 15
tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh
vực như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005
đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau cần phải sáng tỏ như:
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau về chứng
cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều luật, từ Điều 79 đến
Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, luật sư... có
cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và vấn đề chứng
minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một loại chứng cứ,
có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật
sư có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ
cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả
chọn đề tài: " Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự " làm
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mọi thủ tục tố tụng phi hình sự
đều thực hiện theo ba Pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết, luận văn được nghiên cứu
dựa theo các Pháp lệnh đó. Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
01 năm 205 vấn đề chứng minh và chứng cứ mới chỉ có một số bài viết như "Chế định
chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Công
Bình, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ
trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004.
Những bài viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ,
chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả chưa có đủ điều kiện
nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân sự theo
phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu
về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền thống (dân sự và hôn
nhân gia đình), còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ
nội dung của chế định này trong các công trình nghiên cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và
phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v...
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của luận văn
là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức
một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất
những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh trong tố
tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trưng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vướng mắc về chứng cứ và
chứng minh trong thực tiễn cần phải giải quyết và nêu những kiến nghị cho việc hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm chứng cứ
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi
hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai
đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ.
Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa
vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình; các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình
tiết của vụ việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công
dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò quan trọng nhất trong
hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt
động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà nó chỉ
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tượng có mối liên hệ phổ
biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng cứ cũng là một dạng vật
chất, nó phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại trong đầu óc, trí nhớ.
Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong các nguồn của chứng cứ.
Để làm rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những
tình tiết liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào?
Các đương sự đã cung cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được
một số chứng cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện
pháp để nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng
cứ mà pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc dân sự.
Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ luật
Tố tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những
sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án dân sự";
hay Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó
một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được
thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".
Về nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu chung là khẳng định: Chứng cứ
là sự thật khách quan.
ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó
là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con
người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc
dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến
nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận dưới góc độ
khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn. Qua thực tiễn xét xử và các
loại chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự, theo tác giả có một số
quan điểm sau:
Cụm từ "những gì có thật" chưa thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học. Cụm từ
này trừu tượng khó hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý đòi hỏi trong
sáng, minh bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trước đó, đã có quan điểm góp ý dự thảo Bộ
luật Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những tin tức có thật". Có thể cụm từ
này sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể hơn, sát với thực tế cuộc sống hơn. Nó
giúp cho các chủ thể nhận thức về chứng cứ dễ dàng hơn vì chứng cứ là những cái có
thể xác định được, nghe được, nhìn được, thậm chí chiếm giữ được trên thực tế. Tóm
lại, dù tồn tại dưới dạng vật hay vật có giá trị mang tin thì nó đều tồn tại dưới dạng vật
chất cụ thể, tựu chung nó mang một thông tin, một số thông tin khách quan có thật.
Việc quy định "... do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này
quy dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự...",
quy định này còn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau "... cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc của định nghĩa. Khái
niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản: phản ánh toàn diện về đối tượng;
phản ánh tương đối chính xác về đối tượng; là sự hiểu biết tương đối có hệ thống về đối
tượng.
Trên lập trường, quan điểm thế giới quan duy vật, xem xét chứng cứ xuất phát từ
thực tế khách quan của chính bản thân nó chứ không lệ thuộc vào ý thức của con người.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự vận động,
phát triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc, có
nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không ở dạng tĩnh lặng, bất
động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Từ những ý kiến bình luận trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức phản ánh sự
thật khách quan do đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức, người tham gia tố tụng giao nộp hoặc Tòa án thu thập theo trình tự,
thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết đúng đắn vụ việc dân
sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo
ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ.
Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá
để sử dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên
quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên quan
đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể
các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh giá những gì có thật
liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay những
tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần
phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự
kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có
mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định
đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra
trường hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên
cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ. Trước hết,
chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ
khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong các loại nguồn của chứng cứ. Vật
chứng phải luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá
trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng. Vì vậy,
Tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá chứng cứ
một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo đúng đắn tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể:
- Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân sự đang
để trống quy định này).
- Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Phải được thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau. Những tình
tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dưới hai dạng sau:
- Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự
được phản ánh vào đầu óc con người, từ đó con người ghi lại, chụp lại và phản ánh có ý
thức lại chính nó.
- Các dấu vết, vật chứng là vật chất.
Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau như: chứng cứ gián tiết,
chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định, chứng cứ khẳng định,
chứng cứ viết...; nhưng dù có gọi như thế nào thì cũng không làm thay đổi giá trị của nó. Việc
phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định về chứng cứ để giải quyết
vụ việc dân sự có hệ thống và minh bạch.
- Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rút ra từ lời khai của đương sự, người làm
chứng.
- Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rút ra từ những vật như vật chứng, tài liệu,
giấy tờ.
1.1.4. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp theo
trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự thì
được coi là nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không chứng minh làm
sáng tỏ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao gồm: "Các
tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết
quả định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân
sự). Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại nguồn
chủ yếu là nguồn vật và tài liệu. Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái
niệm khác nhau; nhưng thực tế là thường được hiểu chung. Vì một số trường hợp các
phương tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức và vụ việc dân sự như
vật chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ... tức cũng là nguồn của chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ
loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định; nhưng không
có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định trong đó sẽ chứa đựng
chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng. Ví dụ, vật chứng đương sự
cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng được đương sự làm giả, gian dối thì
không thể coi vật chứng này là nguồn được; hay kết luận giám định là nguồn chứng cứ
nhưng kết luận giám định sai thì không thể coi là nguồn của chứng cứ được.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp
pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc
hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được, nhìn được phải
xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản và sự liên quan
tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim
ảnh... Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc,
nhìn được mà đương sự giao nộp không thể được coi là chứng cứ.
- Các vật chứng
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự, nếu không phải là
hiện vật gốc nhưng phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Do vậy, vật chứng phải
luôn có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Vì vậy, Tòa
án không chỉ thu thập vật chứng theo trình tự luật định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo
đảm giá trị đặc tính của vật chứng. Nếu đương sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải
lập biên bản miêu tả chi tiết hình thức cũng như đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu
vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với vật không thể di chuyển được thì phải xem xét tại
chỗ; vật mau hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét như
ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để lưu.
- Lời khai của đương sự
Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ tham gia trực
tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp hay giải quyết của mình tại Tòa án. Lời khai
của đương sự dựa trên trí nhớ và sự kiện, tình tiết nên thường mang tính chủ quan. Tâm lý
trong lời khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái quyền lợi cá nhân, nên xem xét yếu tố
này để Tòa án thận trọng khi đánh giá.
Lời khai của đương sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo đúng trình
tự và ký tên của mình. Lưu ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của người làm chứng
Người làm chứng là người biết rõ những thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng
lại không có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường
thể hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó như bị dụ dỗ, bị mua
chuộc, bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời khai sai lệch, thiếu chính xác. Lời khai
của người làm chứng theo quy định phải được ghi bằng văn bản hoặc ghi âm, ghi hình,
nhưng phải ký tên xác nhận. Người làm chứng phải đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi
dân sự; nếu bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự phải có người đại diện.
- Kết luật giám định
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ quan
chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu của một bên
đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu
giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ
kiện có thể quyết định toàn bộ vụ án. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị
tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay không, nó qu