Ký là một bộ phận hợp thành của hầu hết các nền văn học hiện đại.
Được xem là một thể loại rất cơ động, linh hoạt, nhạy bén, ký ngày càng khẳng
định vị trí quan trọng của mình trong việc phản ánh hiện thực của đời sống con
người và xã hội ở cái thế trực tiếp và tươi mới nhất, đồng thời vẫn giữ được
những giá trị nghệ thuật cơ bản của một tác phẩm văn học. Bằng vốn sống, sự
hiểu biết và tài năng sáng tạo, các nhà văn viết ký thực sự đã khẳng định vai trò
không thể thiếu của mình trong việc góp phần xây dựng một nền văn học hoàn
chỉnh.
1.2 Trong những gương mặt viết ký tiêu biểu của văn học Việt Nam
hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) nổi lên như một hiện tượng đáng chú
ý với một phong cách viết vừa trữ tình, lãng mạn vừa thâm trầm, triết lí rất độc
đáo, tài hoa.
Vốn được sinh ra và lớn lên ở Huế - một trong những trung tâm văn hóa
lâu đời của đất nước, do đó, hơn ai hết, HPNT rất am hiểu về thiên nhiên, lịch
sử, văn hóa và con người nơi đây. Bởi vậy, những trang viết của ông luôn được
gắn với vùng đất Huế vừa thẩm mỹ vừa ruột thịt. Bên cạnh đó, với vốn kiến thức
uyên bác, phong phú trên nhiều lĩnh vực có được bằng sự tích lũy kiến thức qua
những chuyến điền dã đến mọi miền của Tổ quốc, từ rừng hồi Lạng Sơn đến tận
đất Mũi Cà Mau , HPNT đã sáng tạo được những trang ký vừa chuyển tải được
những vấn đề thời sự nóng hổi, đáng quan tâm đang diễn ra trong cuộc sống vừa
thể hiện cái nhìn của một con người luôn muốn tìm hiểu, khám phá sự kiện ở
chiều sâu của nó.
171 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chuyên ngành văn học Việt Nam: Ký hoàng phủ Ngọc Tường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------
LÊ THỊ HỒNG MINH
KÝ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh - 2006
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu ...........................................................2
3. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................3
4. Đóng góp của luận văn ....................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................7
6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... . 7
Chương 1: Hoàng Phủ Ngọc Tường và ký Việt Nam hiện đại
1.1 Hoàng Phủ Ngọc Tường - con người và sự nghiệp . .......................................8
1.2 Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện
đại .................................................................................................................13
1.2.1 Khái quát về thể “ký” .......................................................................13
1.2.2 Đặc điểm ký Hoàng Phủ Ngọc Tường ..............................................17
1.2.3 Vị trí ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt
Nam hiện đại ....................................................................................24
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường
2.1 Cảm hứng thiên nhiên ..................................................................................32
2.1.1 Một thiên nhiên tươi đẹp với nhiều dáng vẻ phong phú khác nhau . 33
2.1.2 Một thiên nhiên đầy khắc nghiệt, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh
và
con người ............................................................................................42
2.2 Cảm hứng văn hoá - lịch sử ..........................................................................45
2.2.1 Luôn hướng đến chiều sâu văn hóa ................................................. 46
2.2.2 Những khám phá mới về lịch sử ...................................................... 55
2.3 Cảm hứng trữ tình công dân .........................................................................60
2.3.1 Ca ngợi con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm 60
2.3.2 Ca ngợi con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước ...................................................................................................64
2.3.3 Ca ngợi sự lựa chọn thái độ sống đúng đắn của người trí thức Việt
Nam
trước những bước ngoặc của lịch sử . ................................................ 67
2.4 Cảm hứng phê phán và cảm hứng thời sự ...................................................71
2.4.1 Phê phán tội ác diệt chủng và diệt môi trường sống của kẻ thù xâm
lược ....................................................................................................71
2.4.2 Trăn trở với những vấn đề thời sự nóng hổi đáng báo động .............75
Chương 3: Phương thức biểu hiện của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường
3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 81
3.1.1 Sự tự biểu hiện của cái Tôi trữ tình ...................................................81
3.1.2 Thế giới nhân vật phong phú, sinh động ...........................................86
3.2 Nghệ thuật xây dựng kết cấu .......................................................................90
3.2.1 Kết cấu “phi cốt truyện” .................................................................. 90
3.2.2 Kết cấu theo trường liên tưởng ..........................................................96
3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu .............................................101
3.3.1 Ngôn ngữ .........................................................................................101
3.3.2 Giọng điệu ... ....................................................................................113
3.4 Cách ứng xử nghệ thuật đối với từng tiểu loại ...........................................118
3.4.1 Với bút ký .........................................................................................118
3.4.2 Với tùy bút ..................................................................................... . 121
3.4.3 Sự xâm nhập giữa hai thể loại ........................................................ 124
KẾT LUẬN ............................................................................................ 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 131
PHỤ LỤC ............................................................................................... 139
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1 Ký là một bộ phận hợp thành của hầu hết các nền văn học hiện đại.
Được xem là một thể loại rất cơ động, linh hoạt, nhạy bén, ký ngày càng khẳng
định vị trí quan trọng của mình trong việc phản ánh hiện thực của đời sống con
người và xã hội ở cái thế trực tiếp và tươi mới nhất, đồng thời vẫn giữ được
những giá trị nghệ thuật cơ bản của một tác phẩm văn học. Bằng vốn sống, sự
hiểu biết và tài năng sáng tạo, các nhà văn viết ký thực sự đã khẳng định vai trò
không thể thiếu của mình trong việc góp phần xây dựng một nền văn học hoàn
chỉnh.
1.2 Trong những gương mặt viết ký tiêu biểu của văn học Việt Nam
hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) nổi lên như một hiện tượng đáng chú
ý với một phong cách viết vừa trữ tình, lãng mạn vừa thâm trầm, triết lí rất độc
đáo, tài hoa.
Vốn được sinh ra và lớn lên ở Huế - một trong những trung tâm văn hóa
lâu đời của đất nước, do đó, hơn ai hết, HPNT rất am hiểu về thiên nhiên, lịch
sử, văn hóa và con người nơi đây. Bởi vậy, những trang viết của ông luôn được
gắn với vùng đất Huế vừa thẩm mỹ vừa ruột thịt. Bên cạnh đó, với vốn kiến thức
uyên bác, phong phú trên nhiều lĩnh vực có được bằng sự tích lũy kiến thức qua
những chuyến điền dã đến mọi miền của Tổ quốc, từ rừng hồi Lạng Sơn đến tận
đất Mũi Cà Mau, HPNT đã sáng tạo được những trang ký vừa chuyển tải được
những vấn đề thời sự nóng hổi, đáng quan tâm đang diễn ra trong cuộc sống vừa
thể hiện cái nhìn của một con người luôn muốn tìm hiểu, khám phá sự kiện ở
chiều sâu của nó.
2
Chính vì thế, những tác phẩm ký HPNT thực sự đã khẳng định giá trị của
mình theo thời gian, gây được sự chú ý cho công chúng gần xa và những nhà phê
bình, nghiên cứu văn học .
Từ năm 2003, ký HPNT đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình
Văn 12 thí điểm phân ban ở cả 2 bộ sách (bộ 1 do Trần Đình Sử chủ biên; bộ 2
do Phan Trọng Luận chủ biên) với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Đây là một sự ghi nhận đáng kể vị trí của ký HPNT đối với nền văn học nước
nhà.
1.3 Là một người giảng dạy văn học, lại vốn có sự yêu thích về bản chất
phản ánh “người thật, việc thật” của thể ký và niềm say mê về truyền thống văn
hóa xứ Huế, tôi đã tìm đến những trang ký của HPNT. Bởi tôi mong rằng, qua
những trang ký đầy “ánh lửa” đó, tôi phần nào cảm nhận được những truyền
thống văn hóa - lịch sử đặc sắc của xứ Huế, của dân tộc, mở rộng tầm nhìn của
mình đến mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là về mảnh đất miền Trung đầy
thương đau và khói lửa trong chiến tranh. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu ký
HPNT sẽ trang bị cho tôi những kiến thức cần thiết và bổ ích trong việc giảng
dạy tác phẩm ký của ông ở THPT.
Đó chính là những lý do tôi muốn đi sâu vào những tác phẩm ký của nhà
văn HPNT để khám phá những giá trị tiềm ẩn, cũng như muốn khẳng định sự
đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Mặt khác, nếu thành công, tôi
xem như đây là một kỷ niệm trân trọng dành cho ông.
2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Giới hạn của đề tài:
Có thể nói, văn chương HPNT thực sự là một mảnh đất còn đang bỏ ngỏ.
Do thời gian có hạn, luận văn chỉ tập trung vào việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm
3
nhằm rút ra những đặc điểm chủ yếu của ký HPNT trong sự nghiệp sáng tác của
ông trên hai phương diện nội dung cảm hứng và phương thức biểu hiện.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này, người viết tập trung khảo sát các tác phẩm ký của
HPNT, chủ yếu là bút ký và tùy bút, được tuyển chọn trong tập 2 và 3 của
“Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” (trọn bộ 4 tập) do Nhà xuất bản Trẻ TP
Hồ Chí Minh phát hành năm 2002. Tổng số là 80 tác phẩm.
Tuy nhiên, để bao quát hơn, chúng tôi tham khảo thêm các tác phẩm của
HPNT đã được in riêng: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh
lửa”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Bản di chúc của cỏ lau”, “Hoa trái
quanh tôi”, “Huế di tích và con người”, “Ngọn núi ảo ảnh”, “Trong mắt tôi”,
“Rượu hồng đào chưa nhắm đã say”, Tập 1 “Tuyển tập HPNT” (tuyển chọn
những bài Nhàn đàm), “Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé”
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Có thể xem HPNT là một hiện tượng văn học miền Trung và rộng hơn là
văn học cả nước sau năm 1975. Các tác phẩm của ông tạo nên một sức hấp dẫn
riêng, đặc biệt là đối với những người đã từng gắn bó với Huế. Những năm gần
đây, các bài phê bình, bình luận tác phẩm HPNT đã được đăng nhiều trên các
báo, tạp chí trong và cả ngoài nước. Ngoại trừ những bài viết bình bàn về thơ (vì
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài) thì chúng tôi có trong tay những bài
viết sau liên quan ít nhiều đến nội dung đề tài cần khảo sát:
Bước vào văn đàn Việt Nam không bao lâu, HPNT đã nhanh chóng tạo
dựng một chỗ đứng vững chắc cho mình với những tập bút ký giàu giá trị nội
dung và nghệ thuật. Và có lẽ, theo chúng tôi, Nguyễn Tuân là người đầu tiên có
một cái nhìn rất bao quát nhưng đầy chính xác về giá trị của ký HPNT: “Ký
4
HPNT có rất nhiều ánh lửa” [99, tr. 3]. Còn Trần Đình Sử thì nhìn nhận một
cách cụ thể hơn: “Bút ký của HPNT là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát
hiện bề dày văn hóa và lịch sử của các hiện tượng đời sống Văn anh giàu những
tư liệu lấy từ sử sách, tri thức khoa học, huyền thoại và ký ức cá nhân làm cho
hình tượng lóe lên những ánh sáng bất ngờ” [77, tr.298]. Phạm Xuân Nguyên khi
đưa HPNT vào “Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sau
1975” đã đánh giá: “Bất cứ viết về cái gì và viết về nơi đâu, tôi thầm nghĩ, HPNT
chỉ đặt bút xuống trang viết khi đã tìm được mạch liên tưởng của nơi này với nơi
kia, hôm nay và ngàn xưa, nhất thời và muôn thuở và khi đã quyết được với mình
là từ những trang viết đó khả dĩ có được một chút gì đấy còn lại với người, với
đời cho dù sự kiện đã vĩnh viễn bị vùi lấp trong dòng thời gian”, bởi vậy mà “Ký
của Hoàng Phủ Ngọc Tường là từ thực tế thoát ra khỏi thực tế, sau khi đã ngoảnh
vào lịch sử văn hóa hiện trở ra đời” [64, tr.76-78]. Không chỉ thế, Nguyễn Đăng
Mạnh còn đưa HPNT vào bộ sưu tập 90 chân dung nhà văn Việt Nam hiện đại
trong “Tác giả Văn học Việt Nam” (Tập II) cùng với những nhận xét đáng quý:
“Trong số không nhiều nhà văn đã dành gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của
mình cho thể ký hiện nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc” và
chính “sự nhạy bén trong việc nắm bắt hiện thực cuộc sống và nhanh chóng lẩy
ra những vấn đề đáng quan tâm, đáng bình luận là một nguồn gốc tạo nên thành
công ở các trang kí của nhà văn” [51, tr.38].
Một trong những yếu tố của ký HPNT mà các nhà phê bình hay đề cập
đến là cảnh sắc thiên nhiên. Lê Xuân Việt trong bài “Cảnh sắc thiên nhiên
trong bút ký HPNT”, có viết: “Với HPNT, cảnh sắc thiên nhiên Huế in rõ bản
sắc, bút pháp trong sáng tác của anh. Anh viết về sông Hương, Bạch Mã, về
“thành phố vườn” của Huế với những liên tưởng phong phú, đa dạng mang dấu ấn
của một cây bút tài hoa trong hư cấu, sáng tạo hình tượng đầy tính nghệ thuật ít
lẫn với những người viết khác” [126, tr.80]. Lê Đức Dục thì nhấn mạnh: “Thiên
5
nhiên vốn có mặt trong mỗi số phận con người, nhưng thiên nhiên hóa thân thành
máu thịt đời người, trở thành ám ảnh khôn nguôi đối với Hoàng Phủ Ngọc
Tường” và “Đọc những bút ký của anh, ta luôn bắt gặp một HPNT luôn hiền kính
như con chiên trước một đấng tối cao là chim muông - hoa lá - đất trời gọi tên là
thiên nhiên” [17, tr.96-97]. Còn Lê Thị Hường thì tinh tế, cụ thể hơn: “Là thi sĩ
của thiên nhiên, HPNT nhạy cảm với cỏ, hoa, ngàn thông, chim sẻ. Trong thơ anh
xuất hiện nhiều hình ảnh hoa dại, cỏ gai, chim trời như là biểu tượng của thiên
nhiên trong trẻo, thuần khiết. Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của HPNT
mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết
trầm tích văn hóa từ thiên nhiên” [42, tr.69].
Một khía cạnh khác mà các nhà nghiên cứu, phê bình cũng hay chú ý, đó
là chất Huế, văn hóa Huế trong các tác phẩm HPNT. Hoàng Ngọc Hiến khi viết
“Ký và tiểu luận (et-xe)” đã phát hiện rằng “trong Hoa trái quanh tôi của
HPNT, vườn An Hiên được chiêm ngưỡng bằng những suy tư về “bản sắc Huế”, về
quan niệm triết học Con người - Thiên nhiên và rộng hơn nữa, về vị thế của con
người trong vũ trụ” [32, tr.19]. Đặng Nhật Minh thì nhìn nhận: “Cái làm nên
giá trị văn chương của HPNT theo tôi nghĩ, lại không nằm trong những kiến thức
văn hóa uyên thâm ấy, mà nằm trong cái chất Huế của con người anh” [56, tr.65].
Trần Thùy Mai khi đặt vấn đề “Ký văn hóa của HPNT” đã nhấn mạnh: “Huế
trong ký văn hóa của HPNT không giới hạn ở những thành quách, lăng mộ, sông
núi, hay những chuyện vua chúa hậu phi chép dài dài trong những sách sử” mà
“điều anh quan tâm là con người, và với sự hiểu biết khoa học của mình anh đã
dựng lại diện mạo tâm hồn của Huế xưa, điều mà không một nhà Huế học nào
làm được” [50, tr.56].
Bên cạnh đó, vốn kiến thức uyên bác, sâu rộng về các vấn đề của đời
sống xã hội của nhà văn - cái mạch ngầm tạo nên sức sống, sức hấp dẫn cho các
tác phẩm HPNT cũng được các nhà phê bình, nhà văn đặc biệt nhấn mạnh. “Đọc
6
Ngọn núi ảo ảnh của HPNT”, Hoàng Cát đã nhận định: “HPNT có một phong
cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học,
triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm
nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được” [12, tr.69].
Còn Nguyên Ngọc khi “Đọc HPNT” thì nhận xét: “HPNT là người thường hay
suy nghĩ về lịch sử. Và những mô tả của anh, cố gắng thật tỉnh táo, bao giờ cũng
được “chống đỡ” bởi những suy nghiệm sâu xa và ẩn ngầm về lịch sử; chính vì
vậy mà những mô tả ấy thật khách quan nhưng không hề hời hợt” [63, tr.11]. Nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng nhấn mạnh: “Anh là một nhà văn hóa hành văn vô
cùng độc đáo, một cuốn từ điển sống về Huế, và đôi khi như một triết gia uyên
thâm lãng tử”, “Đọc anh, ta không chỉ thâu nhận đời sống, lịch sử, triết học, kinh
tế hay chính trị mà còn cảm nhận được cả một tình yêu lớn đối với con người, dân
tộc và cách mạng” [85, tr.65]. Ngay cả Đặng Tiến, một Việt kiều sống ở Paris,
sau khi “Đọc tuyển tập HPNT” cũng đã đánh giá: “Đặc điểm trong tác phẩm
HPNT là chất trí tuệ, dựa trên vốn kiến thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn học
kết hợp với lý luận sắc bén, được phô diễn trong hành văn súc tích, say đắm và
hào hoa. Tình cảm dành cho đất nước, quê hương, bè bạn, thiên nhiên và nhân
đạo vượt ra khỏi khuôn sáo văn chương, trở thành sinh lực lay chuyển tâm tư
người đọc” [95, tr.8].
Có thể nói, với sự thông tuệ kiến thức đời sống, lịch sử, văn hóa cổ kim
Đông - Tây, HPNT đã ngày càng khẳng định vị trí của mình bằng một phong
cách ký rất độc đáo, rất riêng. Lê Viết Thọ “Trong miền hoài niệm” của mình
đã ngẫm thấy: “Ngòi bút của nhà văn đẫm đầy chất thơ, chất trữ tình sâu lắng
làm cho bài bút ký như trở thành một essai (tiểu luận) với những trang sâu sắc
triết luận, miêu tả nghệ thuật tinh tế, một lượng tri thức, liên tưởng và một kiến
văn phong phú” [90, tr.62]. Rồi Đặng Hiển, người giới thiệu tác phẩm “Ai đã
đặt tên cho dòng sông” trong Ngữ văn 12, Tập 2, Ban KHTN, khi trình bày
7
những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật HPNT cũng đã nhấn mạnh:
“Những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông (HPNT) là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa khách quan và chủ quan, giữa trữ tình và chính luận, sử thi
hóa cảm hứng lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng” [47, tr.37].
Bởi vậy, “Trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy không nhiều nhưng là
những trang rực lửa, một cây bút xuất sắc của miền Trung xứ Huế” - Trần Mạnh
Thường đã đi đến kết luận như vậy khi giới thiệu ông trong “Từ điển tác gia
văn học Việt Nam thế kỷ XX” [94, tr.279].
Nhìn chung, những tài liệu đã được tiếp cận dù chưa phải là những công
trình nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện về HPNT và sáng tác của ông nhưng ít
nhiều cũng đã chạm vào những vấn đề mà luận văn đặt ra. Chúng tôi xin ghi
nhận tất cả các ý kiến trên và xem đó như những gợi ý quý báu để đi sâu vào
việc tìm hiểu vấn đề, từ đó rút ra những đặc điểm chủ yếu của ký HPNT.
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
- Luận văn tập trung tìm hiểu các tác phẩm thuộc thể loại ký (chủ yếu là
bút ký và tùy bút) trong sự nghiệp sáng tác của HPNT để có một cái nhìn bao
quát trên hai phương diện nội dung cảm hứng và phương thức biểu hiện.
- Hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị n