Việc nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin về nền kinh tế thị 
trường là cần thiết không chỉ đối với người nghiên cứu khoa học kinh tế, đối với 
cán bộ quản lý kinh doanh, với những người có nhiệm vụ hoạch định đường nối 
phát triển kinh tế của đất nước, mà nó rất cần thiết đối với mỗi con người, mỗi gia 
đình trong xã hội.
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là một nội dung 
hết sức to lớn và rất quan trọng trong học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin. Trong 
điếu văn đọc trước mộ Mác -ăng ghen đã khẳng định, cùng với lý luận về giá trị 
phạm dư, học thuyết hình thái kinh tế xã hội, thì lý thuyết về nền kinh tế thị trường 
là m ột phát kiến vĩ đại của Mác mà sau này đã được Lênin phát triển toàn thiện, nó 
là hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, lý thuyết này vẫn ngời sáng, cho đến ngày 
hôm nay và mai sau.
Trong bối cảnh đầy biến động của thị trường thế giới nói chung cũng như thị 
trường Việt Nam nói riêng. Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội mà đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Để có cơ sở hiểu hơn lý thuyết của 
Mác Lênin, có cơ sở cho thống nhất cao hơn đướng lối của Đảng ta, vấn đề nghiên 
cứu, nắm vững lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là hết 
sức cần thiết.
Em chọn đề tài: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2554 | Lượt tải: 6 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Cơ chế thị trường có sự quản lý 
của nhà nước theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa 
A:Phần mở đầu 
 Việc nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin về nền kinh tế thị 
trường là cần thiết không chỉ đối với người nghiên cứu khoa học kinh tế, đối với 
cán bộ quản lý kinh doanh, với những người có nhiệm vụ hoạch định đường nối 
phát triển kinh tế của đất nước, mà nó rất cần thiết đối với mỗi con người, mỗi gia 
đình trong xã hội. 
 Lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là một nội dung 
hết sức to lớn và rất quan trọng trong học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin. Trong 
điếu văn đọc trước mộ Mác -ăng ghen đã khẳng định, cùng với lý luận về giá trị 
phạm dư, học thuyết hình thái kinh tế xã hội, thì lý thuyết về nền kinh tế thị trường 
là một phát kiến vĩ đại của Mác mà sau này đã được Lênin phát triển toàn thiện, nó 
là hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, lý thuyết này vẫn ngời sáng, cho đến ngày 
hôm nay và mai sau. 
 Trong bối cảnh đầy biến động của thị trường thế giới nói chung cũng như thị 
trường Việt Nam nói riêng. Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội mà đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Để có cơ sở hiểu hơn lý thuyết của 
Mác Lênin, có cơ sở cho thống nhất cao hơn đướng lối của Đảng ta, vấn đề nghiên 
cứu, nắm vững lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là hết 
sức cần thiết. 
 Em chọn đề tài: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Với đề tài này, bước đầu nghiên cứu một số vấn đề lý 
thuyết nền kinh tế thị trường qua đó làm rõ hơn xây dựng thêm lòng tin về đường 
lối mới của Đảng ta. 
B. Phần nội dung 
I: Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường. 
1: Quá trình chuyển hoá từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá 
a.Những khái quát chung về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá. 
Trong lịch sử nến kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hóa là hai hình thức tổ chức 
kinh tế-xã hội đã tồn tại từ lâu. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình 
độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, 
trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. 
 Với nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. 
Từ sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật nhất của nền kinh tế tự nhiên.Mục đích 
là tạo ra giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người 
sản xuất, chính vì thế nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu. 
Đó chính là khâu tự nhiên đều mang chung một hình thái hiện vật. 
 Những ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá so với kinh tế tự nhiên. 
 trong nền kinh tế hàng hoá do sự phát triển của phân công lao động thị 
trường thì ngày càng được mở rộng. Chính điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so 
sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy việc cải tiến công cụ 
lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật, học hỏi, áp dụng kết quả khoa học kỹ thuật, 
mở rộng phạm vi sản xuất; Thúc đẩy sản xuất phát triển. 
Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất không phải là để tiêu 
dùng cho chính bản thân người sản xuất mà là để thoả mãn nhu cầu cang tăng của 
thị trường đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá. 
Đối với sản xuất hàng hoá thì người tiêu dùng được coi là thượng đế được quyền tự 
do lựa chon hàng hoá phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán và thị hiếu của 
mình trên cơ sở là chất lượng và giá cả của hàng hoá, nhu cầu tiêu dùng ngày càng 
cao thì kích thích sản xuất phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. 
- Kinh tế hàng hoá cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh tranh đòi 
hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm tới tăng năng xuất 
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm… Mục đích thu 
lợi nhuận đươc nhiều hơn. Cũng chính từ cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận sẽ làm 
cho lực lượng sản xuất có những bước tiến bộ lâu dài và vững chắc trong quá trình 
sản xuất . 
- Cũng trong nền kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển. 
Quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng, cho lên sản phẩm hàng hoá ngày càng 
phong phú và đa dạng, việc giao lưu văn hoá, kinh rế giữa các vùng, các địa 
phương, các đơn vị kinh tế và các quốc gia ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, 
tinh thần và văn hoă của nhân dân ngày được một nâng cao. 
b. Những nền đề tạo cơ sở cho quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên lên 
nền kinh rế hàng hoá. 
 Qua những ưu điềm của nền kinh tế hàng hoá ta thấy sự ra đời và phát triển 
của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự 
nhiên phát triển đến trình độ là xuất hiện đến tiền đề của kinh tế hàng hóa. Trong 
lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá- tiền đề tồn tại đan 
xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất 
hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi 
bước một nhảy vọt của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như 
vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh 
tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội độc lập. 
 Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với 
sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: 
 + Phân công lao động xã hội. 
 + Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất. 
 + Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền đề. 
 + Hệ thống thông tin và giao thông vận tải. 
 Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. 
Do phân công lao động xã hội cho lên mỗi người chuyên làm một việc trong một 
ngành nghề nhất định. Những nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm 
khác nhau cho cuộc sống. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất 
phải nương tựa vào nhau, trao đổi và quan hệ với nhau. Phân công lao động xã hội 
làm nảy sinh những mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nha 
 Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa 
những người sản xuất., cho lên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu 
thuẫn, họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Để giải quyết 
những mâu thuẫn này buộc phải trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ 
sở trao đổi ngang giá. 
 Sản xuất hàng hoá gia đời khi trao đổi trở thành tập quán và là mục đích của 
sản xuất. 
 Như ta thấy phân công lao động xã hội phát triển từng nào thì quan hệ chao 
đổi cũng được mở rộng và ngày càng phong phú, phức tạp hơn nhiều. 
 Phân công lao động xã hội phát triển cũng hấp dẫn tới sự ra đời của ngành 
thương nghiệp. Đôi khi thương nghiệp ra đời thì phân công lao động xã hội và quan 
hệ trao đổi có sắc thái mới, cũng chính nhờ thương nghiệp phát triển làm cho sản 
xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. 
Đó là nguyên nhân của sự mở rộng quan hệ trao đổi giữa các vùng, đồng thời liện 
kết với người sản xuất lại với nhau, tập chung họ chạy theo sự phát triển nhanh 
chóng của kinh tế hàng hoá. 
 Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận 
tải, cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũng phải mở rộng và phát triển. Đây chính là cơ 
sở vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. 
2.Những bước chuyển biến từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị 
trường có sự quản lý của nhà nước. 
a.Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá.Sự khác 
nhau giữa kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá ở trình độ phát triển. Kinh tế thị 
trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Khi kinh tế hàng hóa 
phát triển điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường 
được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm 
đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sức chứa của 
thị trường và cơ cấu của thị trường đươc mở rộng và ngày càng hoàn hảo hơn. Mọi 
quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá, đến khi đó thì kinh tế hàng hoá 
mới được coi là kinh tế thị trường. 
b.kinh tế thị trường là hình thành trên những điều kiện sau. 
Kinh tế thị trường hình thành và phát triền được là nhờ vào những điều kiện 
cơ bản sau đây : 
Sự suất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động.Chúng ta 
phải khẳng định rằng sự suất hiện của hàng hoá sức lao động là một sự tiến bộ lịch 
sử. Con người lao động được tự do, người lao động có quyền làm chủ khả năng lao 
động của mình và là một chủ thể bình đẳng trong các mối quan hệ làm ăn, sản xuất 
với người khác. 
Sự hoạt động của quy luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những người 
sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, sự phân hoá này diễn ra chậm chạp, cho lên 
cần phải có sự can thiệp bạo lực của nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra 
nhanh hơn. Cũng chính là từ sự phân hoá giàu nghèo tới một giới hạn nhất định đã 
làm nảy sinh hàng hoá lao động và thị trường sức lao động. Nhờ sự suất hiện của 
hàng hoá lao động và thị trường sức lao động và tiền tệ không chỉ đơn thuần là 
phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu 
qủa sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế xã hội. 
Cùng với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành thị 
trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Khi có kinh tế thị trường ra đời. 
Phải tích luỹ một số tiền nhất định và số tiền nhất định và số tiền đó phải trở 
thành vấn đề tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Khi có lợi 
nhuận thì mới kích thích sự sản xuất phát triển, nó mới trở thành động lực thực sự. 
Như ta đã bắt kinh tế thị trường là kinh tế của tiền tệ, cho lên vai trò của 
đồng tiền vô cùng quan trọng. Nhưng để hình thành được nền kinh tế thị trường cần 
phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thêt có 
được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính tín dụng cần ngân hàng còn quá 
yếu ớt và đơn giản, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. 
Sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống kết cấu hạ tầng 
tương đối phát triển, trên cơ sở đó mà đảm bảo được lưu thông hàng hoá và lưu 
thông tiền tệ được thuận lợi rễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở 
rộng quan hệ trao đổi. 
Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, riêng đối với nước ta là điều kiện 
có tính quyết định để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhờ có ngân hàng và hàng 
hệ thống pháp luật đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành 
mạnh. đồng thời Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính cần thiết để phát huy 
những ưu thế và hạn chế những mặt tích cực của thị trường. Nhà nước thực hiện 
chính sách phân phối và điêù tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu 
quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm giải quyết hài hoà 
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. 
Với sự tác động của những tiêu đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hôị 
hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá tiền tệ và 
nó được tiền tệ hoá. Chính vì vậy mà những quy luật của kinh tế thị trường được 
phát huy tác dụng một cách đầy đủ. 
3. Những đặc điểm trưng chung của kinh tế thị trường có sự quản lý của 
nha nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
 Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã 
hội, quá trình đó phù hợp với su thế của thời đại và su thế của nhân dân ta. 
 Trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đòi hỏi những đặc điểm của mô hình kinh tế 
hướng tới. 
 Đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị 
trường. Chẳng hạn , mô hình kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà liên bang Đức, 
kinh tế thị trường sang màu sắc Trung Quốc… Khi xét đều kinh tế thị trường, nền 
kinh tế thị trường các nước đang và đã trải qua đều mang những đặc trưng sau đây: 
 Một là. Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế tự bù 
đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh 
của mình, các chủ thể được tự do liên kết liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản 
xuất theo luật định. Đây là một đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc 
trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng 
hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và 
đồng nghĩa với tự chủ, năng động. 
Hai là: trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng 
hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở 
giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn cả kinh tế thị trường 
so với kinh tế tự nhiên. 
Ba là: giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là 
sự biểu hiện thành tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh 
tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là 
kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng 
này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi 
mua với giá thấp, đối với người bán luôn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn 
mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh 
lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn danh lợi càng 
nhiều càng tốt. Đối với người bán, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. 
Bốn là: cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tông tại trên cơ 
sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo 
yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đèu phải sản xuất và 
kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn 
có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, 
áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nhằm thu lợi nhuận sưu nghạch. 
Trong nên kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả 
lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. 
Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp 
và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. 
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh mọt khía cạnh của mô hình kinh tế thị 
trường. 
II. thị trường và cơ chế thị trường 
1.Thị trường và cạnh tranh thị trường 
a.Thị trường : 
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời 
và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó mà có nhiều cách thức định 
nghĩa về thị trường. Theo nghĩa ban đầu thì thị trường gắn liền với một địa điểm 
nhát định. Nó là nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính 
không gian và thời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thê là hội chợ các địa dư 
hoặc các khu tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày 
càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi 
dào và phong phú; thị trường được mở rộng. Nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là 
lĩnh vực trao đổu hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và 
người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu 
thông trên thị trường. 
Khi nói tới thị trường chúng ra phải nói tới các yếu tố cấu thành thị trường 
đó là hàng và tiền (H và T) người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau. Từ 
đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua bán, cung cầu và giá cả hàng hoá. 
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa 
bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. 
Nhưng trong thực tế thì có nhiều thuật ngữ để biểu hiện khái niệm thị trường 
như: thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư 
liệu sản xuất, thị trường sức lao động… 
Ngoài ra mỗi loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: như thị trường 
gạo, thị trường muối, thị trường lãi… Sở dĩ như vậy là vì trao đổi trở nên thường 
xuyên, phạm vi và quy mô ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá đều phải thông qua 
trao đổi mới đên được tiêu dùng. Có trao đổi, có cung, cầu là có thị trường. Mỗi 
loại hàng hoá hoặc dịch vụ đều có một thị trường tương ứng. ở mỗi thị trường này 
người ta có thể đưa ra các số liệu thống kê về tổng cung, tổng cầu và giá cả thị 
trường. 
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng 
hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta đã phân chia thị trường 
thành: thị trường vật tư cung ứng kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan 
hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do. 
Chúng ta có thể sơ lược về cách phân chia thị trường như sau: 
- Thị trường thứ nhất là thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ: ở thị trường 
này người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, 
quần áo, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình… Những hàng hoá tiêu dùng 
ngày càng chiều theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá. Ngoài ra những hàng hoá 
hữu hình còn có những hàng hoá vô hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may 
vá. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm 
là kết quả của sản xuất, nên thị trường này được gọi là thị trường đầu ra. 
- Thị trường thứ hai là thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này 
người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các loại nguyên 
vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động… Thị trường này được gọi là thị trường đầu 
vào. 
Để phân chia được như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao 
đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá phát 
triển và mở rộng đến đâu thì thị trường phát triển và mở rộng đến đó. 
Khi nói đến thị trường thì chúng ta phải nói đến vai trò của nó. Như phần 
trên đã nghiên cứu thì kthh gắn liền với thị trường, sản xuất cho thị trường, tiêu 
dùng phải thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm cua quá trình tái sản xuất. 
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tỉ lệ 
nhất định. Quan hệ tỉ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất. Nếu kỹ 
thuật tiến bộ thì một lượng sực lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu 
sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Để sản xuất cần có các yếu tố sản 
xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp các yếu tố đó đảm bảo cho quá trình sản xuất 
được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán. thị 
trường lại là nơi tiêu thụ các hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường 
giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn. 
b. Sự cạnh tranh trên thị trường 
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả 
lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất 
bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa những ngành với nhau. Cạnh 
tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: Cạnh tranh giữa những người tham gia trao 
đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, người bán với những người bán, người mua 
với những người mua. Hình thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú 
nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận. Sự ganh 
đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi 
cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của nên kinh tế thị 
trường. Nó đòi hỏi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng thắng lợi trên 
thị trường. 
Đối với nước ta việc cạnh tranh trên thị trường là hết sức quan trọng, có cạnh 
tranh thị trư