Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ (QSHTT) trở nên đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa bao giờ vấn đề bảo
hộ QSHTT lại được coi trọng như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đất nước với rất nhiều cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải có cơ chế,
chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo và bảo hộ QSHTT. Việc thể chế hoá các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ (SHTT), xây dựng cơ
chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu là những yếu tố quan trọng, mang tính quyết định đến sự
thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị
"Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", thì việc hoàn thiện pháp
luật bảo hộ QSHTT, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng
mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ QSHTT phù hợp yêu cầu của WTO và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là việc làm cấp bách. Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xó hội 5 năm 2006-2010 cũng khẳng định:
Thực hiện tốt Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ, đổi
mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học, công nghệ; khuyến khích,
hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trỡnh khoa học và hoạt động sáng tạo
[33].
130 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2985 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp
luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại
Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ (QSHTT) trở nên đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa bao giờ vấn đề bảo
hộ QSHTT lại được coi trọng như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đất nước với rất nhiều cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải có cơ chế,
chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo và bảo hộ QSHTT. Việc thể chế hoá các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ (SHTT), xây dựng cơ
chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu là những yếu tố quan trọng, mang tính quyết định đến sự
thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị
"Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", thì việc hoàn thiện pháp
luật bảo hộ QSHTT, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng
mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ QSHTT phù hợp yêu cầu của WTO và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là việc làm cấp bách. Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xó hội 5 năm 2006-2010 cũng khẳng định:
Thực hiện tốt Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ, đổi
mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học, công nghệ; khuyến khích,
hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trỡnh khoa học và hoạt động sáng tạo
[33].
Việc ban hành đồng bộ những văn bản quy phạm pháp luật về SHTT như Bộ luật
dân sự (BLDS), Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ và các luật có liên quan như
Luật khoa học và công nghệ, Luật hải quan, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS)… để tham gia các điều ước quốc tế, thực hiện các yêu cầu gia
nhập WTO là những nỗ lực lớn lao của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo hành lang pháp lý
cho việc bảo hộ QSHTT. Có thể nói rằng, chúng ta đã ban hành được một hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về nội dung điều chỉnh về lĩnh vực SHTT. Tuy nhiên, pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT cũng như thực tiễn giải quyết các xâm phạm về QSHTT tại Tòa án
nhân dân (TAND) còn nhiều bất cập. Trờn thực tế, tỡnh hỡnh vi phạm về QSHTT diễn ra
ngày càng phổ biến, trờn khắp đất nước, nhưng trái ngược với thực tiễn đó, các xâm phạm về
QSHTT lại ít được giải quyết bằng một phán quyết của Toà án. Theo thống kê của Tũa án
nhân dân tối cao (TANDTC) thỡ từ năm 2000 đến năm 2005, toàn ngành Toà án thụ lý để
giải quyết 93 vụ tranh chấp về QSHTT theo thủ tục tố tụng dân sự (bao gồm 32 vụ về
quyền tác giả (QTG), 18 vụ về quyền liên quan đến QTG, 43 vụ tranh chấp về quyền sở
hữu công nghiệp (QSHCN), trong đó: 11 vụ về QTG, 22 vụ về QSHCN, đây là điều bất
hợp lý, cần sớm tỡm ra nguyờn nhõn và lý giải nguyờn nhõn đó.
Trong thời gian qua đó cú một số cụng trỡnh nghiờn cứu liờn quan về QSHTT.
Tuy nhiờn, cỏc cụng trỡnh đó mới chỉ nghiên cứu ở cấp độ lý luận về nội dung QSHTT,
về hoạt động xét xử nói chung của TAND hoặc nghiờn cứu về nõng cao vai trũ và năng
lực của TAND trong việc thực thi QSHTT, các công trỡnh nghiờn cứu đó chưa chuyên
sâu vào hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Trước tình hình đó, tác
giả đó chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay" để làm luận văn tốt
nghiệp cao học luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, vấn đề bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo hộ QSHTT tại
TAND nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề
này còn khá mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, việc nghiên cứu về QSHTT đã và
đang được giới luật gia hết sức quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có một số công
trình tiêu biểu như sau: "Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế" do
Tiến sĩ Đặng Quang Phương biên soạn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; "Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ" do Tiến sĩ, Luật sư Lê Xuân Thảo biên soạn, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2005; "Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, Viện Khoa học xét xử, TANDTC chủ trì, 1999; "Đổi mới và hoàn thiện cơ
chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học của Lê Xuân Thảo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 1996...
Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan như: Tài liệu
hội thảo về đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia về "Cơ chế thực thi pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam" (mã
số QGTĐ.03.05) do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện; Tài liệu hội thảo về thực thi
Luật SHTT do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Dự án Hỗ trợ thúc đẩy
thương mại (STAR VIETNAM) và TANDTC tổ chức, tháng 8-2006…
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế
điều chỉnh pháp luật về SHTT trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó có đề cập
đến việc nghiên cứu cơ chế quản lý và thực thi SHTT, nội dung quản lý nhà nước về SHTT
bằng pháp luật; về vị trí, vai trò của Toà án trong việc bảo vệ QSHTT… Các công trình
nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa và phát triển trong đề
tài nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề về bảo hộ và thực thi QSHTT có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rất
rộng, nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, thương mại,
hành chính, hình sự...; do đó, nếu muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi phải có
sự đầu tư nghiên cứu kiến thức liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, với
một luận văn tốt nghiệp cao học luật, tác giả chỉ giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên
cứu ở cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND
Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung làm rõ thực trạng và vai trò giải quyết tranh chấp
QSHTT của TAND theo thủ tục tố tụng dân sự, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Vấn đề bảo hộ, thực thi QSHTT có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, với
nhiều mục đích nhằm giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ pháp luật giữa các cơ quan
quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp về bảo hộ QSHTT. Bằng việc đề xuất những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, luận văn góp phần làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt
Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND;
- Phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT và vai trò giải quyết
tranh chấp QSHTT tại TAND;
- Đề xuất một số giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở lý luận của khoa học chuyên ngành về
SHTT, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về phát
triển khoa học - công nghệ và SHTT trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với
thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so
sánh luật, trên cơ sở xem xét tính phổ biến của pháp luật trong khu vực cũng như pháp
luật trên thế giới về bảo vệ QSHTT tại hệ thống Toà án.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trong lĩnh vực bảo hộ QSHTT, việc bảo vệ QSHTT tại TAND bằng các hình
thức nào, trình tự thủ tục ra sao, thực tiễn như thế nào... chưa được nghiên cứu, đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên về cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ
tục bảo vệ QSHTT tại TAND ở nước ta trong tình hình hiện nay. Luận văn góp phần
hoàn thiện cơ sở lý luận về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND; phân tích thực trạng pháp
luật về trình tự, thủ tục tố tụng (hành chính, hình sự, dân sự) và phân tích thực trạng giải
quyết các vụ án về QSHTT tại TAND, nêu ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của chúng; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ
QSHTT tại TAND.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa góp
phần tăng cường pháp chế về lĩnh vực SHTT và đổi mới, hoàn thiện pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu cho những
người quan tâm nghiên cứu về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Những đề xuất có thể
tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn thi hành pháp luật và nâng cao
hiệu quả bảo vệ QSHTT tại TAND.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
những vấn đề lý luận
về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
1.1. những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo được
thừa nhận là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ thường tồn tại dưới dạng những thông tin kết
hợp chặt chẽ với nhau, được thể hiện trong những vật thể hữu hình và bản thân vật mang
thông tin đó có khả năng xuất hiện trong cùng một thời điểm với số lượng bản sao không
giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này
không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao hữu hình mà chính là quyền sở hữu
hình thức thể hiện những thông tin chứa đựng trong các bản sao đó [40].
Tài sản trí tuệ có khả năng chia sẻ và mang tính xã hội rất cao. Mỗi thành quả
được tạo ra từ hoạt động trí tuệ của con người sẽ đem đến cho toàn xã hội, toàn nhân loại
những giá trị mới về tinh thần, về tri thức. Thuộc tính vô hình của loại tài sản này khiến
cho việc sử dụng, khai thác sản phẩm trí tuệ từ người này không làm hao giảm hoặc ảnh
hưởng đến việc sử dụng của người khác cũng như của những người sáng tạo ra chúng. Vì
vậy, tài sản trí tuệ sẽ đem lại lợi ích hoặc về khía cạnh tinh thần và tri thức hoặc khía
cạnh kinh tế cho mọi người và toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ tính đặc biệt này
của tài sản trí tuệ nên nó không thể bị chiếm hữu về mặt thực tế, song khả năng lan
truyền sự chiếm hữu đó lại rất nhanh và rất khó kiểm soát. Mặt khác, khi đã được công
bố, nó cũng dễ dàng bị sao chép, sử dụng và khai thác một cách rộng rãi ở bất kỳ nơi nào
bởi bất kỳ ai... [50].
Tuy những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo
mặc nhiên được thừa nhận là tài sản trí tuệ, nhưng cần phải phân biệt giữa QSHTT và
quyền sở hữu tài sản. Nếu như quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu, thì QSHTT có nội hàm rộng hơn. Theo khái niệm
chung nhất, trong Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) ký tại
Stockholm ngày 14-7-1967:
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học, các sáng chế trong các lĩnh vực hoạt động
của con người, các khám phá khoa học, các kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại, bảo hộ chống cạnh
tranh không lành mạnh cũng như tất cả các quyền khác bắt nguồn từ các hoạt
động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật
[18].
Theo đó, người ta phân biệt đối tượng QSHTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học; các chương trình biểu diễn, phát thanh, ghi âm, truyền hình...; sáng
chế/giải pháp hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu hàng hoá; tên thương mại; tên gọi
xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý; bí mật kinh doanh; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
giống cây trồng mới; chống cạnh tranh bất hợp pháp. Hai nhóm phổ biến nhất của QSHTT
là QTG và quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật, thì các quyền mới như thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, các quyền
về giống cây trồng mới cũng được pháp luật bảo hộ như các tài sản trí tuệ.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chính sách SHTT ngày càng được củng cố và phát triển. Bên cạnh
đó, việc hoàn thiện về hệ thống, về tổ chức cũng như năng lực các cơ quan quản lý nhà
nước về SHTT là một trong những mục tiêu bước đầu đã đạt được. Nhà nước Việt Nam
công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với các đối tượng QSHTT, coi trọng chính sách pháp
luật về bảo hộ QSHTT, coi đó là một chính sách quan trọng trong chiến lược phát triển
lâu dài. Với mục tiêu xây dựng một hệ thống bảo hộ QSHTT đầy đủ, hiện đại và có hiệu
quả nhằm thúc đẩy sáng tạo khoa học, công nghệ và kinh doanh của xã hội, thu hút đầu
tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thực hiện công cuộc CNH,
HĐH đất nước, Điều 60 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền nghiên cứu
khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước
bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp" [34]. Việc "hoàn thiện pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng
mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu
của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên" [30] và việc "hoàn thiện
pháp luật về khoa học công nghệ... thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ" [30] là
một trong những định hướng được nêu tại mục 3 phần II của Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Trên bình diện chung, thực chất của quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam
nhằm hướng đến xây dựng hệ thống thị trường toàn diện theo nguyên lý của kinh tế thị
trường (điều kiện quan trọng để hội nhập kinh tế toàn cầu và gia nhập WTO). Có thể nói
rằng, từ năm 1986 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quyết tâm "mở cửa" để
gia nhập WTO và việc gia nhập WTO đang được thực hiện theo đúng lộ trình.
Theo pháp luật Việt Nam, QSHTT là chế định pháp luật dân sự, thuộc quan hệ
pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung.
QSHTT là một phạm trù pháp lý trong quyền sở hữu dân sự nói chung, giống như các
quyền dân sự khác, các quy phạm pháp luật về QSHTT bao gồm những nhóm quy phạm
về: các hình thức sở hữu; căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu; cách thức, biện pháp
dịch chuyển quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên, QSHTT là quyền sở hữu
đối với tài sản vô hình, là các sản phẩm sáng tạo của trí tuệ con người; do đó, nội dung
của QSHTT không hoàn toàn giống quyền sở hữu tài sản hữu hình khác do thuộc tính của
đối tượng sở hữu. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất của nội dung QSHTT là quyền sử
dụng các đối tượng SHTT. Theo cách hiểu tổng quát thì QSHTT là một phạm trù pháp lý,
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ SHTT.
Trong Luật SHTT, "quyền sở hữu trí tuệ" được định nghĩa như sau: "Quyền sở
hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng" (khoản 1 Điều 4) [64]. Trong Hiệp định TRIPs, thuật ngữ "quyền sở hữu trí tuệ"
đề cập đến tất cả các loại tài sản trí tuệ là đối tượng được ghi nhận từ Điều 1 đến Điều 7
của Phần 2: QTG và các quyền liên quan (Điều 1); nhãn hiệu hàng hoá (Điều 2); chỉ dẫn
địa lý (Điều 3); kiểu dáng công nghiệp (Điều 4); sáng chế (Điều 5); thiết kế bố trí mạch
tích hợp (Điều 6); bảo hộ thông tin bí mật (Điều 7).
* Quyền tác giả:
Thuật ngữ "tác giả" có nguồn gốc Hán Việt, "tác" có nghĩa là "làm", cũng có
nghĩa là "sáng tác tác phẩm", "giả" có nghĩa là "kẻ, người", cho nên "tác giả" có nghĩa là
"người làm ra một tác phẩm, người tạo nên một tác phẩm". Như vậy, tác giả được hiểu là
người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp sáng tạo
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hoặc tác phẩm phái sinh.
Theo quy định tại Điều 745 của BLDS năm 1995, "tác giả" là người trực tiếp
sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Người dịch tác
phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả tác phẩm dịch đó; người phóng tác
từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình
khác, là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể đó; người biên soạn, chú
giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo, là tác giả của
tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó cũng được công nhận là tác giả.
Có thể nói rằng, khái niệm này chưa có tính khái quát, mới mang tính thống kê
nhưng không đầy đủ. Khái niệm "tác giả" đã được hoàn thiện hơn tại Điều 736 của BLDS
năm 2005; theo đó, người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi
chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó; trong trường hợp có hai người hoặc nhiều
người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả; người sáng tạo
ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ ngôn
ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú
giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó. Theo chúng tôi, việc đưa khái niệm
tác giả vào BLDS năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi
được công nhận là tác giả thì sẽ có quyền tương ứng gọi là QTG. QTG là một trong
những quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn chung về Nhân quyền và tại
các Thỏa ước quốc tế của Liên Hợp Quốc, đồng thời QTG cũng là một quyền pháp lý rất
quan trọng nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật [66, tr. 10]. Tác phẩm văn học,
nghệ thuật là tất cả các sản phẩm sáng tạo của con người để làm giàu cho trí tuệ và tâm
hồn con người, bao gồm tất cả các loại hình văn học (như: tiểu thuyết, thơ, kịch bản...),
các loại hình nghe nhìn (như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh...) và các thành quả nghiên cứu
khoa học.
Luật SHTT định nghĩa: "Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mỡnh sỏng tạo ra hoặc sở hữu" (khoản 2 Điều 4) [64]. QTG bao gồm quyền
nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền: đặt tên cho tác phẩm;
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
được công bố, sử dụng; công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt