Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển
mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối
thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp .
Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách
mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế
kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được
thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế
kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh
tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội
Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị
trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh
tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh
tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992
đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định
giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng
trước pháp luật
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Công ty cổ phần và vai trò của
nó trong phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển
mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối
thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp .
Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách
mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế
kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được
thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế
kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh
tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội
Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị
trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh
tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh
tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992
đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định
giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng
trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới.
Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật
doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và
rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh
nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát
huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp
khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta thì công
ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị trường này.
Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với vai trò và tầm quan trọng của công ty cổ phần ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay, em mạnh dạn chọn đề tài "Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay".
Chương I
Lý luận CHUNG Về CÔNG TY cổ phần
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
1. Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và
chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tư bản phát triển như một
nhu cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ phần đã
chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá trình lịch sử
hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trên thế giới có thể được mô tả
theo sơ đồ sau:
Các giai đoạn hình
thành CTCP trên thế giới
Giai đoạn
mầm mống
- Góp vốn
theo nhóm
bạn
- Hoạt động
liên kết
lỏng lẻo
Giai đoạn
hình thành
- Bắt đầu
phát hành
cổ phiếu
- Bước đầu
xuất hiện
giao dịch
chứng
khoán
- Hoạt động
có tổ chức
lớn hơn
Giai doạn
phát triển
- Công ty cổ
phần phổ
biến ở các
nước tư bản
chủ nghĩa
-Các hình
thức đa quốc
gia
- Hình thành
trung tâm tài
chính quốc tế
-Giao dịch
chứng khoán
sôi động
Giai đoạn
trưởng thành
- Hình thức
công ty xuyên
quốc gia, đa
quốc gia
- Thu hút công
nhân mua cổ
phiếu
- Cơ cấu công
ty cổ phần
hoàn thiện,
pháp luật hoàn
thiện
2.1. Giai đoạn mầm mống
Trong những năm đầu của phuơng thức sản xuất TBCN các nhà tư bản lập ra
các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột lao
động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng họ
đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp vốn kinh
doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành
doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh thành lập với số vôn
6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội
buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang ấn Độ theo hướng Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra thị
trường chứng khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ phần bao
gồm cả cổ phần tư nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước đứng ra thành lập.
Theo Các Mác "Trong bước đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành sản xuất đòi
hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc đó từng cá nhân riêng lẻ chưa thực hiện được. Tình
hình đó dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp... Mặt khác điều đó cũng dẫn đến việc thành
lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để kinh doanh trong những
ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Như vậy trong giai đoạn này công ty
cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
+ Doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán (ở Mỹ gọi
là cổ phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nước góp vốn.
2.2. Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với
hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ bản về
công ty cổ phần đã ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần được thành
lập rộng khắp trong các ngành nghề không chỉ trong thương nghiệp mà trong giai đoạn
trước ở các ngành chế tạo, các lĩnh vực giao thông vận tải đường sông, đưòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có lúc
vượt ra ngoài biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ. Một số
doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người đại biểu
quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm hai. Các sở
giao dịch chứng khoán cũng hình thành phổ biến ở các nước Phương Tây tuy nhiên
trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít và hình thức chưa đa dạng,
quy mô còn nhỏ.
2.3. Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ
biến ở tất cả các nước tư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tư bản
diễn ra với tốc độ chưa từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten – Xanh đê
ca – Cơ vốt. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu chuỗi.
Công ty mẹ công - ty con – công ty cháu hình thành một tập đoàn doanh nghiệp xuyên
quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tư bản chịu sự khống
chế của công ty cổ phần. ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần. Đến năm
1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp nông nghiệp
và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
2.4. Giai đoạn hình thành
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để liên
hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân dân"
để làm dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách thuận
lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật
ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần
Muốn hình thành công ty cổ phần phải có một số điều kiện nhất định trong đó
những điều kiện sau là thiết yếu :
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ thuộc
một chủ sở hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó không
phải là công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công ty tư nhân,
công ty TNHH một thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu là Nhà nước)
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như
mua công trái, trái phiếu, gửi ngân hàng... Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản
nhưng bù lại là hình thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền
lớn
3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh
Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức
do đầu tư vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn
sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau
để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Nếu không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành lập được
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần
4.1. Cổ phần, cổ phiếu và cổ đông
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ
phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở
hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc
không ghi tên. Giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu bảo đảm
cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số
tiền ghi trên cổ phiếu
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần của
công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào công
ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng
cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có
thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt động cuả công ty.Theo điều 51 và 53 của Luật
doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập chỉ
được chuyển nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn
chế số lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có
các quyền cơ bản như : tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của
Đại hội đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được nhân cổ tức với
mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông... Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng hoặc tỷ lệ khác
nhỏ hơn theo quy định của điều lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng Quản
trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông ....
4.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không
thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện
làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị,
Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty, là Đại hội của những cổ đông sở hữu đối với công ty cổ phần. Đại hội cổ
đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ đông thành lập, Đại hội đồng cổ đông bất
thường và Đại hội hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty
cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi để có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội đồng cổ đông giao phó. Số thành viên do
Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều lệ của công ty. Hội đồng quản trị có
toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích,
quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội
đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng và chủ tịch Hội đồng Quản trị có thể kiêm
Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có qui định khác.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và
chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn
được giao. Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội đồng
Quản trị. Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng ký kết
với chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ viên
kiểm soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không phải là
thành viên của Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ phân
phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc vào lợi
nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết,
phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp của họ và gọi là cổ
tức.
5. Các loại công ty cổ phần trên thế giới.
ở các nước khác nhau công ty cổ phần có thể khác nhau về tên gọi. ở Pháp là
công ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH ( company Ltd ). ở Mỹ nó được gọi là công
ty kinh doanh ( comercial – coorporation). ở Nhật Bản là công ty chung cổ phần (
Habusiki Haishu) ... Tuy nhiên xét về bản chất chung không có gì khác nhau lớn.
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân
1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào
mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
1.1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng
cao
Trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo cho giá trị hàng hoá cá
biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát
triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất ở mức độ nhất
định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng suất lao động tăng
lên do đó mới có thể thắng được trong cạnh tranh. Còn nhứng nhà tư bản nào có giá trị
hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và phá sản. Để
tránh điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản
xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động hạ giá
thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp rất khó thực hiện do việc tích tụ vốn phải
mất một thời gian khá dài, vì thế các nhà tư bản vừavà nhỏ phải thoả hiệp liên minh
với nhau để tập trung tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh
và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Chính từ hình thức tập trung vốn này các công
ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ
1.2. Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật tạo
động lực thúc đẩy công ty cổ phần hình thành và phảt triển
Công ty cổ phần ra đời rất sớm ( thế kỷ 16) nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ 19
mới phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản. Công ty
cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát
triển cao đòi hỏi tư bản cố định tăng lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư bản
phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng lớn hơn.
Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên minh tập
trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp vốn để
cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty cổ phần. Mặt
khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu hút được các nhà tư
bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này bằng cách di chuyển tư
bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém hiệu quả. Điều này càng gây
ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di chuyển vốn bởi vì họ không thể
bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng
ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi.
Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được
giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để
xây dựng các doanh nghiệp lớn, cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ
đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ
phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng khốc
liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp ngày càng
lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình tham
gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều này có thể làm
cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác do cùng được một
số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí tuệ của nhiều người
trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phảt
triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị
trường trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ
tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định
để thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình cạnh
tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng còn có
vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu không
có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có
nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều
chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi
còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư
bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công nghiệp cơ khí
và sự tự do cạnh tran