Giới từ (preposition) là lớp từ được xác định từ rất sớm trong lịch sử nghiên cứu ngữ
pháp nói chung và từ loại nói riêng của thế giới. Các công trình nghiên cứu về ngữ pháp của
nhiều nước từ trước đến nay, khi miêu tả từ loại hoặc cấu trúc của các đơn vị ngữ pháp, ít nhiều
đều có đề cập đến lớp từ này.
Ở Việt Nam, kể từ cuốn “Việt Nam văn phạm” (1940) của Trần Trọng Kim, Phạm Duy
Khiêm, Bùi Kỷ cho đến các sách ngữ pháp gần đây, các tác giả, ở những mức độ khác nhau,
đều có bàn đến giới từ (có khi được thay bằng thuật ngữ khác như kết từ phụ thuộc, quan hệ
từ phụ thuộc, từ nối chính phụ). Trong những công trình nghiên cứu đó, các tác giả xuất phát
từ nhiều góc nhìn khác nhau đã khảo sát, miêu tả giới từ tiếng Việt ở những bình diện khác
nhau và thực tế đã có những đóng góp đáng kể trong việc chỉ ra những đặc điểm chức năng
của lớp từ này.
127 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3101 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm chức năng của giới từ trong tiếng việt hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Lê Duy Trinh
ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG CỦA GIỚI TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2006
Lôøi caûm ôn
Ñeå hoaøn thaønh luaän vaên naøy, chuùng toâi ñaõ nhaän ñöôïc söï giuùp ñôõ cuûa quyù Thaày
Coâ giaûng daïy lôùp Cao hoïc Lí luaän ngoân ngöõ khoùa 14; quyù Thaày Coâ ôû khoa Ngöõ vaên,
Phoøng Khoa hoïc coâng ngheä – Sau ñaïi hoïc Tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm thaønh phoá Hoà
Chí Minh; Ban Giaùm hieäu, quyù Thaày Coâ giaûng daïy taïi Khoa Sö phaïm tröôøng Ñaïi
hoïc Tieàn Giang.
Ñaëc bieät, chuùng toâi nhaän ñöôïc söï giuùp ñôõ, höôùng daãn taän tình cuûa Coâ Dö Ngoïc
Ngaân, tieán só Ngoân ngöõ hoïc, chuû nhieäm boä moân Ngoân ngöõ hoïc khoa Ngöõ vaên Tröôøng
Ñaïi hoïc Sö phaïm thaønh phoá Hoà Chí Minh.
Chuùng toâi traân troïng nhöõng söï giuùp ñôõ ñoù vaø xin ñöôïc noùi lôøi caûm ôn chaân
thaønh.
Taùc giaû
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Tài liệu trích dẫn được đặt trong dấu . Chữ số đầu tiên đặt trước dấu (,) biểu thị số
thứ tự của tài liệu theo danh mục tài liệu tham khảo. Chữ số thứ hai đặt sau dấu phẩy biểu thị
số thứ tự trang của tài liệu được trích dẫn; ví dụ 7,tr. 24 là tài liệu thứ 7 trong danh mục tài
liệu tham khảo, trang 24. Nếu đoạn trích dẫn nằm ở hai ba trang liên tục thì giữa trang đầu và
trang cuối có ghi thêm dấu gạch nối (-), ví dụ 27,tr. 240 - 247. Thông tin đầy đủ về tài liệu
trích dẫn được ghi trong mục Tài liệu tham khảo đặt cuối luận văn.
2. Ví dụ được in nghiêng và ghi theo thứ tự a, b,c ... của từng phần.
3. Ngoài một vài chữ viết thông dụng như : x (xin xem), vd (ví dụ), luận văn còn sử
dụng một số ký hiệu :
- Dấu / : hay, hoặc
- Dấu + : có
- Dấu - : không có
- Dấu : có thể phát triển, biến đổi thành
4. Những từ trong ngoặc đơn ( ) là những từ có thể lược bỏ mà không làm cho câu thay
đổi về phương diện “có thể” hay “không thể” được người bản ngữ chấp nhận.
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giới từ (preposition) là lớp từ được xác định từ rất sớm trong lịch sử nghiên cứu ngữ
pháp nói chung và từ loại nói riêng của thế giới. Các công trình nghiên cứu về ngữ pháp của
nhiều nước từ trước đến nay, khi miêu tả từ loại hoặc cấu trúc của các đơn vị ngữ pháp, ít nhiều
đều có đề cập đến lớp từ này.
Ở Việt Nam, kể từ cuốn “Việt Nam văn phạm” (1940) của Trần Trọng Kim, Phạm Duy
Khiêm, Bùi Kỷ cho đến các sách ngữ pháp gần đây, các tác giả, ở những mức độ khác nhau,
đều có bàn đến giới từ (có khi được thay bằng thuật ngữ khác như kết từ phụ thuộc, quan hệ
từ phụ thuộc, từ nối chính phụ). Trong những công trình nghiên cứu đó, các tác giả xuất phát
từ nhiều góc nhìn khác nhau đã khảo sát, miêu tả giới từ tiếng Việt ở những bình diện khác
nhau và thực tế đã có những đóng góp đáng kể trong việc chỉ ra những đặc điểm chức năng
của lớp từ này.
Tuy vậy, theo quan sát của chúng tôi, giới từ trong tiếng Việt có một diện mạo phong
phú và phức tạp hơn những gì mà các tác giả đi trước đã miêu tả. Nói một cách cụ thể hơn,
với tư cách là một yếu tố ngôn ngữ có tần số sử dụng rất cao trong giao tiếp, giới từ đảm
nhận khá nhiều chức năng và đóng vai trò quan trọng khi tham gia tạo lập phát ngôn. Một
số đặc trưng ngữ pháp và thuộc tính ngữ nghĩa của nó không phải chưa từng được nói đến
trong các công trình nghiên cứu trước đây. Có điều, chưa có một công trình nào khảo sát,
miêu tả ở mức độ đủ chi tiết để tổng kết các đặc điểm chức năng (ngữ pháp, ngữ nghĩa) của
giới từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt, nhất là gắn việc xem xét giới từ với bản chất tín
hiệu học nhằm phát hiện những hoạt động có tính quy luật của nó khi tham gia hành chức.
Hơn nữa, các công trình nghiên cứu đó đa phần chỉ quan tâm đến chức năng ngữ pháp của
giới từ do quan niệm giới từ là “hư từ” thuần túy; vì vậy, chức năng ngữ nghĩa của lớp từ
này chưa được chú ý.
Mặt khác, khả năng phát triển thành ngữ đoạn trong giao tiếp của giới từ là hoàn toàn
hiện thực. Nhưng kiểu ngữ đoạn như vậy (giới ngữ) hoặc không được thừa nhận hoặc thừa
nhận nhưng chưa được quan tâm và khảo sát đúng mức, trong khi ở một số ngôn ngữ khác
loại ngữ đoạn này đã được xác định và miêu tả tương đối đầy đủ.
Xuất phát từ tình hình trên và từ mong muốn góp phần tường minh hóa các đặc điểm
chức năng (ngữ pháp, ngữ nghĩa) của giới từ – giới ngữ trong tiếng Việt, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Việc phân định từ loại nói chung, việc xác định từ loại giới từ nói riêng đã có lịch sử
khá lâu đời. Trên cơ sở kế thừa và phát triển lí luận về từ loại của các triết gia, học giả Hy
Lạp thời cổ đại (Protagoras, Platon, Aristote), học phái Alexandrie đã xác lập hệ thống từ
loại tiếng Hy Lạp gồm tám từ loại trong đó có giới từ hay tiền trí từ (các từ loại khác là danh
từ, động từ, tính động từ, thành phần, đại danh từ, phó từ và liên từ). Giới từ được học phái
này quan niệm là loại từ có thể đứng trước các loại từ khác và cũng có thể dùng trong kết cấu
nội bộ của cụm từ và câu. Đến thế kỷ IV sau công nguyên, Donatus và Priscianus, hai nhà
ngữ pháp học La tinh chia tiếng La tinh thành tám loại (danh từ, động từ, đại từ, tính động từ,
phó từ, liên từ, thán từ và giới từ). Trong đó, giới từ được xác định có đặc điểm là dùng như
một từ riêng biệt trước các từ biến cách và kết hợp với cả các từ biến cách và các từ không
biến cách. Các nhà ngữ pháp học châu Âu đã dựa vào kết quả này để xây dựng một hệ thống
từ loại bao gồm chín loại sau: article (quán từ), substantif (danh từ), adjectif (tính từ) verbe
(động từ), adverbe (trạng từ), pronom (đại từ), préposition (giới từ), conjonction (liên từ) và
interjection (thán từ).
Về sau, bảng từ loại này mang tính chất truyền thống và được dùng để miêu tả hoạt động
ngữ pháp của nhiều ngôn ngữ trên thế giới, nhất là ở châu Âu.
Ở Việt Nam, tài liệu cũ nhất bằng tiếng Việt có đề cập đến giới từ có lẽ là bài tựa “Báo
cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông kinh” trong cuốn từ điển thường được gọi là từ điển
Việt–Bồ–La của Alexandre de Rhôdes xuất bản năm 1651 tại Rome. Trong phần III của bài
tựa này, tác giả đã xem giới từ tiếng Việt là một trong bốn loại thuộc phần không biến hình
của lời nói (ba loại kia là phó từ, thán từ, liên từ).
Với những tài liệu thu thập được, chúng tôi nhận thấy: giới từ tiếng Việt đã được các
nhà nghiên cứu ở những thời kỳ khác nhau đề cập đến trong các công trình ngữ pháp học của
mình.
Từ năm 1940, các tác giả (Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ) của cuốn “Việt
Nam văn phạm” đã xác định và đặt tên cho giới từ tiếng Việt với định nghĩa như sau:
“Giới từ là tiếng dùng để liên lạc một tiếng với tiếng túc từ của nó” 23, tr.131.
Sau đó, trên thực tế, các tác giả đã dựa vào ngữ nghĩa để phân loại các giới từ.
Trong cuốn “Văn phạm Việt Nam” (1952), Bùi Đức Tịnh không nêu rõ định nghĩa về
giới từ mà xếp luôn các liên từ phụ thuộc (bởi, vì, cho nên, tuy... nhưng) vào cùng một loại
với giới từ và gọi chúng là “giới từ và giới ngữ”. Theo ông, “giới từ và giới ngữ” là những
tiếng dùng để chỉ sự tương quan giữa ý nghĩa của hai từ ngữ và hai mệnh đề 43, tr.230.
Nguyễn Kim Thản trong công trình “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt” (1963) tách
riêng giới từ thành một từ loại như trong “Việt Nam văn phạm” (1940) và quan niệm: Giới từ
là một loại hư từ (trong nhóm quan hệ từ) có tác dụng nối liền từ phụ (hoặc từ tổ phụ) với từ
chính (hoặc từ tổ chính), biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa hai đơn vị đó. Ví dụ:
– Đi với tôi; viết bằng bút chì; ăn cho no
– Người mà tôi gặp hôm qua là người miền Nam 39, tr.330.
Trong công trình nghiên cứu này, ông mới chỉ đặt vấn đề “nghiên cứu qua về một số
giới từ chính trong tiếng Việt” và xét một số giới từ như sau: ở, ở trong (Anh bếp ở trong
chạy ra), từ (tự), với, đối với, cùng với, cùng, bởi, vì, để, do, tại, cho, bằng (chiếc nhẫn này
bằng vàng), rằng (một lúc, ngài dạy rằng...).
Có điểm cần lưu ý là Nguyễn Kim Thản cho các từ “trên”, “dưới”, “trong”, “ngoài”,
“trước”, “sau” không thuộc từ loại giới từ mà thuộc phạm trù “thời vị từ”, “đứng trước danh
từ, chúng và danh từ là đồng ngữ, có ý nghĩa ngữ pháp về địa điểm, thời gian hay khối
lượng,...và làm thành phần của câu (hay của từ tổ)” 39, tr.330-347
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng – Từ ghép – Đoản
ngữ)” quan niệm: quan hệ từ (bao gồm giới từ và liên từ) là những từ có khả năng đi kèm với
đoản ngữ với tư cách là những cái dấu nối hai chiều, nối đoản ngữ với một đơn vị nào đấy ở
trước để tạo thành một đơn vị lớn hơn. Ông viết “những từ này có thể xem như là những dấu
hiệu hình thức chứng tỏ rằng đoản ngữ sau chúng đã được đặt vào một thế phân bố nhất
định”. 7, tr.326
Giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983) của trường Đại học Sư phạm Hà Nội không
nêu ra định nghĩa quan hệ từ mà chỉ giới thiệu đặc điểm và tác dụng của từ loại này. Theo
đó, quan hệ từ “ là loại đơn vị được gọi là giới từ, liên từ hoặc từ định hình cú pháp hoặc từ
nối dùng để nối các thành phần trong nhóm và trong câu hay các thành tố trong cụm từ ”8,
tr.162. Các tác giả cũng cho rằng: khác với các lớp từ cơ bản và các phụ từ, lớp từ này
không có ý nghĩa phạm trù, chức năng, không có khả năng kết hợp với những lớp từ khác; nó
là một thứ công cụ ngữ pháp, được dùng để góp phần “hiện thực hóa” các quan hệ cú pháp
trong cụm từ, trong câu... để xây dựng nên các kết cấu cú pháp.
Trong công trình nghiên cứu tập thể “Ngữ pháp tiếng Việt” (UBKHXH, 1983), các tác
giả đã xác định một từ loại gọi là kết từ với cách phân loại hết sức cô đọng như sau:
a. Kết từ chính phụ tức là kết từ biểu thị quan hệ chính phụ.
Đó là những từ như: do, của, để, bởi, bởi vì, tại, tại vì, mà, đối với, từ ...
b. Kết từ liên hợp tức là kết từ biểu thị quan hệ liên hợp.
Đó là những từ như: và, với, hay, hoặc, cùng, nhưng, song... và những từ có thể dùng
thành cặp như: nếu... thế, tuy... nhưng, vì... cho nên, không những... mà còn, càng... càng...
46, tr.91
Như vậy, tuyệt đại đa số các từ được các tài liệu ngữ pháp trước đó cho là giới từ được
các tác giả công trình nghiên cứu nói trên xếp vào loại kết từ chính phụ.
Cũng dùng thuật ngữ kết từ, Diệp Quang Ban trong tài liệu “Ngữ pháp tiếng Việt phổ
thông” (1989) cho rằng “Kết từ (còn gọi là quan hệ từ) là những hư từ dùng để liên kết các từ
với nhau hoặc các vế trong câu”. Sau đó, mặc dù viết: “Trong nhiều ngôn ngữ, kết từ được
phân biệt rõ thành giới từ và liên từ. Cách phân biệt này không thuận lợi đối với tiếng Việt”
nhưng tác giả vẫn thừa nhận “ở những chỗ cần thiết người ta vẫn phải nhắc đến tên gọi giới
từ và liên từ”. Tiếp đến, trên thực tế, khi tiến hành phân loại, tác giả đã chia kết từ thành hai
tiểu loại như sau:
“10.1. Giới từ: dùng để nối định ngữ với danh từ – thành tố chính hoặc bổ ngữ gián
tiếp với động từ – thành tố chính .. : của, bằng, do, vì, tại, bởi, để, từ, đến...
“10.2. Liên từ: và, với, cùng, cùng với, cũng, như, còn, mà, hay, hay là, hoặc, hoặc
là,...” 2, tr.143-149.
Năm 1986, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại)”, Đinh Văn Đức cũng có quan
niệm tương tự như Diệp Quang Ban khi viết rằng “so với các ngôn ngữ châu Âu việc tìm
ranh giới triệt để giữa liên từ và giới từ trong tiếng Việt là khó, do tính chất đa chức năng của
các yếu tố”. Từ đó, tác giả kết luận: “tất cả các hư từ cú pháp có thể tập hợp trong một phạm
trù chung là quan hệ từ”16, tr.186.
Khi tiến hành phân loại quan hệ từ, tác giả chia ra các tiểu loại như sau:
a. Các liên từ thuần túy.
b. Các giới từ thuần túy.
c. Các liên từ – giới từ.
Hoàng Văn Thung trong giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” – tập I (1991) không nói đến
thuật ngữ giới từ, liên từ mà dùng thuật ngữ kết từ chính phụ, kết từ đẳng lập. Đây là 2 tiểu
loại của từ loại kết từ. Loại từ này có đặc trưng như sau:
Về ý nghĩa khái quát, kết từ biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và đối tượng
được phản ánh. Kết từ là dấu hiệu biểu thị các quan hệ cú pháp giữa các thực từ (và hư từ)
một cách tường minh.
Về khả năng kết hợp và chức năng cú pháp, kết từ được dùng nối kết các từ, các kết hợp
từ, các câu và đoạn văn có quan hệ cú pháp.
Trong công trình nghiên cứu “Cú pháp tiếng Việt” (1992), Hồ Lê sử dụng bộ thuật ngữ
rất khác với các tác giả đi trước. Ông cho rằng kết từ trong tiếng Việt gồm ba tiểu loại. Mỗi
tiểu loại có chức năng cụ thể như sau:
a. Kết từ nối tiếp: dùng để nối những bộ phận ghép, gồm có: và, với, cùng, nhưng ,
song ...
b. Kết từ chính phụ: dùng để nối bộ phận chính với bộ phận phụ trong các từ tổ danh
từ, động từ, tính từ, gồm những từ như: của, về, với, cho, ở, tại, vào, bằng, để, đặng, vì ...
c. Kết từ đề – thuyết : dùng để nối phần đề với phần thuyết, gồm những từ như: thì, là,
mà, nếu ... thì ... , hễ ...thì ... , tuy ... nhưng ... 26, tr.372-403.
Theo đó, kết từ chính phụ chính là giới từ trong quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu
khác.
Trong giáo trình “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” (1997), các tác giả Mai Ngọc Chừ,
Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến cũng sử dụng thuật ngữ kết từ và giải thích ngắn gọn
“kết từ là những từ dùng để chỉ quan hệ bình đẳng, quan hệ chính phụ và làm nhiệm vụ liên
kết hai từ hay hai bộ phận từ ngữ với nhau” 13, tr.273.
Tương tự như vậy, cuốn “Cơ sở tiếng Việt” (2000) của Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào
Thanh Lan cho biết “kết từ dùng để nối kết các từ thực hoặc các vế câu”. Và nói thêm “ngoài
việc nối kết, chúng còn diễn đạt mối quan hệ giữa các thực từ, các vế câu”. Trên cơ sở chia
kết từ thành hai tiểu loại là liên từ và giới từ, các tác giả quan niệm “giới từ : diễn đạt quan
hệ chính phụ thường dùng để nối định ngữ với danh từ hoặc bổ ngữ gián tiếp với động từ”
15, tr.160 (trong khi liên từ: diễn đạt quan hệ bình đẳng về ngữ pháp hoặc quan hệ liên hợp
qua lại về ngữ pháp và ý nghĩa khi nối các vế câu).
“Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” (1997) đã giải thích giới từ là “từ loại có ý
nghĩa phạm trù, đặc trưng là biểu thị quan hệ của đối tượng với đối tượng, hiện tượng, cảnh
huống. Ý nghĩa này được biểu hiện không phải bằng ý nghĩa từ vựng chân thực của từ mà
bằng những đặc điểm hoạt động của chúng với tư cách là các từ hư chỉ quan hệ. Ví dụ: Sách
của tôi; làm việc ở nhà máy” 49, tr.105.
Trong giáo trình “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” (1997) do Bùi Tất Tươm chủ biên,
các tác giả xem “quan hệ từ là những hư từ dùng để nối từ với từ, hoặc nối đoạn câu, câu với
nhau. Quan hệ từ cũng được dùng để nối những cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu” 44, tr.180.
Xét theo quan hệ ngữ pháp do quan hệ từ diễn đạt, các tác giả phân quan hệ từ ra làm hai
loại: Quan hệ từ bình đẳng và quan hệ từ phụ thuộc; đồng thời nói rõ : các quan hệ từ bình
đẳng có tên gọi truyền thống là liên từ; các quan hệ từ phụ thuộc có tên gọi truyền thống là
giới từ.
Cũng tập thể tác giả này, đến cuốn “Ngữ pháp chức năng tiếng Việt , quyển 2 –Ngữ
đoạn và Từ loại” (2005), dưới sự chủ biên của Cao Xuân Hạo, đã tách giới từ và liên từ ra
thành hai từ loại riêng biệt. Ở đây, giới từ được coi là “những từ được dùng để đánh dấu
quan hệ chính phụ, tức là cho biết ngữ đoạn đi sau nó là phụ (phụ của câu thì gọi là trạng
ngữ, phụ của ngữ danh từ thì gọi là định ngữ, phụ của ngữ vị từ thì gọi là bổ ngữ)” 21,
tr.113.
Trước đó, trong cuốn “Từ loại tiếng Việt hiện đại” (1999), Lê Biên đã có suy nghĩ
tương tự như Đinh Văn Đức (1986) khi cho rằng “việc tách ra thành giới từ và liên từ thiếu
những căn cứ khách quan, vả lại cũng không có tác dụng lớn lao gì cả về lý thuyết và thực
tiễn, cho nên để chung một loại từ”. Tác giả gọi đó là quan hệ từ; đồng thời xác định quan hệ
từ là những hư từ cú pháp, không có nghĩa sở chỉ, sở biểu, là “những từ có chức năng diễn
đạt các mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy” 6,tr.161.
Tác giả Hữu Quỳnh, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (2001), xác định “quan hệ từ là
những từ chỉ các quan hệ ngữ pháp dùng để nối các thành phần trong câu hay các thành tố
trong cụm từ” 36, tr.161.Kết thúc chương quan hệ từ, tác giả chú thích: Ngữ pháp tiếng
Việt trước kia chia quan hệ từ thành giới từ (nối các thành tố trong cụm từ) và liên từ (nối
các thành tố trong thành phần câu).
Trái lại, Nguyễn Văn Thành với công trình nghiên cứu “Tiếng Việt hiện đại (Từ pháp
học)” (2003) tách giới từ và liên từ ra thành hai từ loại độc lập. Đồng thời, tác giả đưa ra
định nghĩa về giới từ như sau:
“Giới từ là những từ trợ nghĩa ngữ pháp, luôn đi trước danh từ, đại từ, số từ, để giới hạn
hành động hay sự kiện về địa điểm cụ thể, thời gian cụ thể hoặc biểu thị nguyên nhân, mục
đích, đối tượng, phương tiện và cách thức cụ thể diễn ra hành động trong câu”41, tr.476.
Qua việc điểm lại các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt tiêu biểu có đề cập đến
giới từ ở các thời kỳ, chúng tôi sơ bộ nhận thấy:
a. Có tác giả xem giới từ nói riêng và quan hệ từ (kết từ, từ nối) nói chung là một loại
“hư từ” thuần túy, là từ công cụ, không có ý nghĩa phạm trù, chức năng và không có khả
năng kết hợp với những lớp từ khác. Vai trò của giới từ trong cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt
được xác định bằng các chức năng liên kết, “xúc tác”, “môi giới, trung gian” nên nó không
có liên quan gì đến cấu tạo và chức năng của các kết cấu cú pháp.
Có tác giả thừa nhận tư cách là phương tiện tổ hợp cú pháp của giới từ và xác định
nó có khả năng đảm nhiệm “vai trò chỉ tố đánh dấu ý nghĩa ngữ pháp” cho các thành tố quan
hệ. Khi đảm nhận vai trò này, giới từ (và liên từ) không phải là một yếu tố trung gian mà
gắn với thành phần được đánh dấu và có tư cách một thành phần trong quan hệ với một thành
phần khác.
b. Trong khi khảo sát và miêu tả đặc điểm chức năng của giới từ tiếng Việt, hầu hết
các công trình đều nghiêng về phương diện ngữ pháp; mà ngay ở phương diện này, các tác
giả có khi lại có quan niệm rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong khi đó, phương diện
ngữ nghĩa của giới từ tiếng Việt hầu như chưa được khảo sát và miêu tả có hệ thống mà
thường dừng ở chỗ giải nghĩa và nêu cách sử dụng của từng giới từ riêng lẻ.
c. Khi tiến hành phân định từ loại, giới từ có khi được xem là một loại từ có cương vị
ngang hàng với các từ loại khác trong hệ thống từ loại tiếng Việt; có khi chỉ được coi là một
tiểu loại cùng với liên từ hợp thành một loại từ được gọi là quan hệ từ hoặc kết từ, từ nối.
d. Việc vạch ra biên giới của giới từ và liên từ gặp nhiều khó khăn cho nên có tác giả
phải đi đến giải pháp trung gian khi cho rằng bên cạnh giới từ và liên từ còn có một tiểu loại
nữa là giới từ – liên từ; hoặc gộp giới từ và liên từ thành một từ loại như đã nói ở mục (c).
Những nhận xét bước đầu như trên càng chứng tỏ giới từ tiếng Việt là một lớp từ có
“diện mạo” rất đa dạng và phức tạp trong hệ thống từ loại tiếng Việt.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Theo quan sát của chúng tôi, giới từ tiếng Việt: về ngữ pháp, là phương tiện đánh
dấu mối quan hệ chính phụ giữa các thành tố trong một ngữ đoạn cho biết thành tố đi sau nó
là phụ; về ngữ nghĩa, là chỉ tố đánh dấu vai nghĩa của các thành phần chức năng có quan hệ
trực tiếp với nó trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu. Từ đó, chúng tôi xác định lớp từ có
những đặc điểm từ loại nêu trên chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
3.2. Trên cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, trong khuôn khổ một luận văn
cao học, đề tài này tập trung khảo sát và miêu tả đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của giới từ
trong tiếng Việt hiện đại.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Giới từ thuộc vào số đối tượng chưa được giới Việt ngữ học nghiên cứu thật đầy đủ.
Ngay cả các công trình nghiên cứu trước đây phần lớn thường mới chỉ dừng lại ở việc xem
xét chức năng và miêu tả cách sử dụng của từng giới từ riêng lẻ. Việc nghiên cứu n