Nằm ở tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú (HA),
Chùa Cầu (hay còn gọi là chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các
thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế
kỷ XVI. Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở
giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm
mại và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc
Chu trong một lần tuần du tỉnh Quảng Nam, đã đến thăm Hội An, nhân đó đã
đổi tên chiếc cầu này thành tên chữ “Lai Viễn Kiều” (có nghĩa là cầu của
khách phương xa đến). Ba chữ này được chạm nổi trên cửa chính của cầu.
Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – vị thần
chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai
đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu.
42 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2822 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm địa danh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn thạc sĩ
Đặc điểm địa danh
Quảng Nam
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
DẪN
LUẬN.................................................................................................................
.............. 1
1. Lý do chọn đề
tài.............................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn
đề.............................................................................................. 3
2.1. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Việt
Nam.............................................................. 3
2.2. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Quảng
Nam.......................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu.................................................................................. 9
3.1. Đối tượng nghiên
cứu............................................................................................... 9
3.2. Phạm vi nghiên
cứu.................................................................................................. 9
4. Mục đích nghiên
cứu....................................................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên
cứu............................................................................................... 10
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu
tả.......................................................... 10
5.2. Phương pháp so sánh, đối
chiếu........................................................................... 10
5.3. Phương pháp điền
dã.............................................................................................. 10
5.4. Phương pháp khảo sát bản
đồ............................................................................... 10
6. Bố cục của luận
văn...................................................................................................... 11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUẢNG
NAM 12
1.1. Cơ sở lý
thuyết............................................................................................................ 12
1.1.1. Khái niệm địa
danh............................................................................................. 12
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu và vị trí của địa danh
học............................................ 15
1.1.3. Phân loại địa
danh............................................................................................... 16
1.2. Những nét sơ lược về Quảng
Nam............................................................................ 21
1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa lý hành chính Quảng
Nam...................................... 21
1.2.2. Tổng quan về Quảng
Nam.................................................................................. 33
1.3. Tiểu
kết.......................................................................................................................
. 46
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM........ 48
2.1. Địa danh Quảng Nam: kết quả thu thập và phân
loại............................................ 48
2.1.1. Phân loại theo loại
hình...................................................................................... 48
2.1.2. Phân loại theo nguồn gốc ngữ
nguyên.............................................................. 49
2.1.3. Phân loại theo số lượng âm
tiết......................................................................... 50
2.2. Các phương thức cấu thành địa danh Quảng
Nam................................................. 51
2.2.1. Phương thức tự
tạo............................................................................................... 53
2.2.2. Phương thức chuyển
hoá.................................................................................... 63
2.3. Đặc điểm cấu tạo địa danh Quảng
Nam.................................................................. 70
2.3.1. Cấu tạo
đơn.......................................................................................................... 70
2.3.2. Cấu tạo
phức........................................................................................................ 71
2.4. Vấn đề danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng
Nam................ 74
2.4.1. Danh từ chung và tên
riêng................................................................................ 74
2.4.2. Danh từ chung và thành tố
chung..................................................................... 76
2.4.3. Một số danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng
Nam......... 77
2.5. Tiểu
kết.......................................................................................................................
. 79
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CHUYỂN BIẾN CỦA ĐỊA DANH
QUẢNG NAM 81
3.1. Các nguyên nhân làm biến đổi địa
danh................................................................. 81
3.1.1. Nguyên nhân xã
hội............................................................................................ 81
3.1.2. Nguyên nhân ngôn
ngữ....................................................................................... 87
3.2. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa
danh......................................................... 90
3.2.1. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình thiên
nhiên...................... 90
3.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành
chính............................................ 93
3.2.3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ công trình xây
dựng.................... 107
3.3. Tiểu
kết......................................................................................................................
111
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ PHẢN
ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM................................................................................................ 113
4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý
nghĩa.......................................................................... 113
4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ
ràng........................................................... 113
4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh
cãi................................................ 117
4.2. Giá trị phản ánh hiện
thực....................................................................................... 119
4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch
sử....................................................................... 119
4.2.2. Giá trị phản ánh về mặt địa lý tự
nhiên.......................................................... 125
4.2.3. Giá trị phản ánh về mặt kinh
tế....................................................................... 127
4.2.4. Giá trị phản ánh về mặt văn
hoá..................................................................... 130
4.2.5. Giá trị phản ánh về mặt ngôn
ngữ................................................................... 133
4.3. Tiểu
kết......................................................................................................................
136
KẾT
LUẬN.................................................................................................................
.......... 138
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................................................................. 141
PHỤ
LỤC....................................................................................................................
.......... 147
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA
VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM
4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý nghĩa
4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng
4.1.1.1. Chùa Cầu
Nằm ở tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú (HA),
Chùa Cầu (hay còn gọi là chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các
thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế
kỷ XVI. Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở
giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm
mại và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc
Chu trong một lần tuần du tỉnh Quảng Nam, đã đến thăm Hội An, nhân đó đã
đổi tên chiếc cầu này thành tên chữ “Lai Viễn Kiều” (có nghĩa là cầu của
khách phương xa đến). Ba chữ này được chạm nổi trên cửa chính của cầu.
Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – vị thần
chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai
đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu.
Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù – một loài thuỷ
quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản.
Mỗi lần Cù cựa quậy là gây lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài
việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài
thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.
Chùa Cầu là một tài sản vô giá và đã được chọn làm biểu tượng của Hội An.
4.1.1.2. Bằng Than
Dân gian quen gọi là “Bàn Than” và cả trên một số sách báo cũng thường
viết là “Bàn Than”, với cách giải thích theo kiểu trực quan là hòn núi có đỉnh
bằng phẳng như mặt “bàn” và màu đen như than. Thực ra, đúng tên là “Bằng
Than”. Trong ngôn ngữ địa phương trước đây đã xảy ra hiện tượng từ “bằng”
vốn là tính từ được dùng như danh từ, chẳng hạn như: Bằng Thùng là tên một
ngọn núi ở phía tây huyện Quế Sơn giống như một cái thùng úp ngược; Bằng
Võ là tên một khu đất ngày xưa nghĩa quân của Nguyễn Duy Hiệu hay tập võ
nghệ; ở huyện Duy Xuyên có núi gọi là Hòn Bằng; ở miền tây Quảng Ngãi
có địa danh Bằng Chò là đỉnh núi bằng phẳng có nhiều cây chò mọc. [54,
tr.828]
Bằng Than là một hòn núi thấp, nằm sát biển, thuộc xã Tam Hải (NT), dài
khoảng 2km, cao 40m, trên đỉnh bằng phẳng, rộng khoảng 20ha, phủ đầy một
loại cỏ thân cứng và những cây dại như chà là, sim, mua. Thời kháng chiến
chống Mỹ, trực thăng của quân đội Mỹ nhiều lần đổ quân trên hòn Bằng
Than trong các cuộc càn quét. Điều đáng chú ý là ở mặt phía đông và đông
nam, vách đá cao dựng đứng màu đen như than. Từ ngoài biển nhìn vào, ta
thấy có một số hang động do sự xâm thực của sóng biển lâu ngày và những
bãi cát lô nhô nhiều hòn lớn nhỏ cùng những hố ẩn hiện trong những tia nước
và bọt biển trắng xoá trên cái phông màu đen của đá kéo dài đến hút tầm mắt.
Theo hình dáng tự nhiên và qua trí tưởng tượng phong phú của người dân địa
phương, những vách đá, hố nước nơi đây được đặt tên như: hố Cột Tàu, khe
Bà Che, hố Đùng, …
Về thắng cảnh này, sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Nam viết: “Núi
Phú Xuân có tên là núi Bàn Than, ở cách huyện Hà Đông 50 dặm về phía
đông nam, nằm lề bên cửa biển Đại Áp ở phía bắc; mạch núi nguyên từ núi
Chủ Sơn kéo về, chia ra quanh co qua các xã Hoà Vấn, Phú Hoà đến thôn
Phú Xuân Hạ thì nổi vọt lên một ngọn núi, sắc đá đen như than, đứng xa thấy
đỉnh núi bằng màu đen như cái mâm than, nên gọi tên như thế”.
4.1.1.3. Bồ Bồ
Núi đất cao 55m so với mực nước biển, đỉnh tương đối bằng phẳng, rộng
khoảng 1,5km2, làm ranh giới giữa hai xã Điện Tiến và Điện Thọ (ĐB).
Về nguồn gốc địa danh Bồ Bồ được giải thích như sau: Nguyên đây là đỉnh
núi cao nhất của cụm “núi đất” dài hơn 2km thuộc làng Đức Ký. Sau “Hiệp
ước phòng thủ chung” ở Đông Dương giữa Pháp và Nhật được ký kết (23-7-
1941), quân Nhật được tự do đóng quân ở Đông Dương. Trên đất Điện Bàn,
Nhật xây dựng căn cứ dã chiến để bảo vệ Đà Nẵng, thường được gọi là “trảng
Nhật”. Cùng thời gian này, quân Nhật xây trên đỉnh cao của núi đất một trạm
bằng gạch, mỗi bề 5x5m, cao 0,5m, ở giữa có cây trụ, bên trên đặt một vật
hình tròn bằng gỗ bọc phên tre bên ngoài, ở xa trông giống cái bồ đựng thóc,
sơn nửa đỏ nửa trắng để làm dấu hiệu dẫn đường cho máy bay Nhật. Người
dân bằng cảm quan trực tiếp của mình, gọi đó là “bồ bồ”. Về sau, khi quân
Nhật không dùng trạm này nữa, vật “giống cái bồ” bị mục nát, chỉ còn lại địa
danh Bồ Bồ.
Năm 1949, giặc Pháp đã đóng một đồn lớn trên núi Bồ Bồ, nhằm án ngữ mặt
trận phía nam, bảo vệ Đà Nẵng. Ngày 19-7-1954, sau hai giờ chiến đấu, quân
ta đã tiêu diệt cứ điểm Bồ Bồ, diệt 100 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có một
đại tá. [54, tr.1645]
Sau ngày toàn thắng, một tượng đài chiến thắng đã được xây dựng trên đỉnh
Bồ Bồ.
4.1.1.4. Ông Đốc
Địa danh này gắn liền với trận đánh “có một không hai” của nghĩa quân
Quảng Nam trong thời kháng chiến chống Pháp. Câu chuyện như sau:
Để trấn an tinh thần cho quan Khâm sai, đồng thời thị uy với nghĩa quân
vùng Phú Kỳ (làng Gò Nổi – ĐB), quân Pháp đã cho bảy ca nô đầy lính
tráng, súng ống, ngược sông Vĩnh Điện lên neo đậu tại Bãi Chài thuộc làng
Vân Ly (ĐB).
Từ trạm tiền tiêu của nghĩa quân ở Phong Thử do đội Côn và đội Thoá trấn
giữ bảo vệ đại đồn Bình Yên, địa phận huyện Quế Sơn. Tán tương Nghĩa hội
Trần Huy liền cho mời bang tá Nguyễn Đình Tán từ đồn Phong Thử lên khẩn
bàn. Kế hoạch tập kích được vạch ra tỉ mỉ. Theo đó, nghĩa quân chia làm ba
mặt trận tấn công vào Bãi Chài, một đội xung kích sẽ từ bến đò đánh ra.
Tán tương đồn Bình Yên - Trần Huy - cho người lên thượng lưu sông Thu
Bồn đóng bè bằng hom dâu thả trôi xuống Bãi Chài. Đây là loại bè có điều
khiển bằng cách gióng các sợi mây hai bên, thả trôi ngầm dưới nước để kéo
bè đi. Đến một cự li nhất định, gần mục tiêu, bè mới được bứt dây cho lao
tới. Lúc phát hiện được bè, sẽ không còn cách nào tránh kịp. Trên bè, nghĩa
quân đặt nhiều trái phá với liều thuốc nổ cực mạnh, nhằm công phá đội
xuồng máy của giặc đang neo đậu tại Bãi Chài.
Đúng giờ quy định, các chiếc bè theo con nước đổ xuôi rất mạnh được bứt
dây, phóng vun vút vào đám ca nô. Bọn giặc Pháp thấy thế, ơi ới gọi nhau lấy
bất cứ thứ gì có được nhằm đẩy bè ra xa. Nhưng đã quá chậm, các chiếc bè
công kềnh cứ thế lao tới, đâm sầm vào đội xuồng máy của giặc. Một loạt
tiếng nổ long trời lở đất làm cho các chiếc xuồng tung toé, ba trong bảy chiếc
lật úp xuống sông. Tức thì ba mặt, trên nước và đất liền, nghĩa quân theo
quân lệnh “hễ thấy tàu, thuyền có cắm cờ ba sắc cứ bắn xả vào” đã khai hoả
vào mục tiêu và dùng câu liêm móc đầu bọn giặc nhào xuống nước, hoặc
dùng giáo đâm giặc.
Về phía nghĩa quân, đốc binh họ Bùi hy sinh. Để tưởng nhớ ông, nhân dân
gọi nơi ông ngã xuống là bến đò Ông Đốc. Địa danh ghi lại một sự kiện lịch
sử, thể hiện lòng biết ơn, tôn kính đối với vị anh hùng họ Bùi. Ngày nay, bến
đò Ông Đốc ở thôn Vân Ly xã Điện Quang huyện Điện Bàn.
4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh cãi
4.1.2.1. Faifo
Hội An trong lịch sử có nhiều tên gọi khác nhau: Hải Phố, Hoài Phố, Hội
Phố, Hoa Phố, Haiso, Faifo, … vốn là một thương cảng nằm bên bờ con sông
lớn nhất tỉnh, đã có một thời kỳ phát triển phát đạt nhất khu vực Đông Nam
Á. Nơi này thu hút thuyền buôn nhiều nước Đông Nam Á và nhiều nước
phương Tây đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Về địa danh Faifo: từ
Faifo lần đầu tiên xuất hiện trong hồi ký của nhà truyền giáo người Ý
Christoforo Borri đã từng sống ở Hội An và Đàng Trong từ năm 1618 đến
năm 1621. Cách giải thích nguồn gốc từ Faifo có nhiều thuyết khác nhau:
1- Faifo từ Hải Phố mà ra (theo Chapuis).
2- Faifo từ Hội An phố mà ra (theo Trần Kinh Hoà).
3- Faifo từ Hoa Phố mà ra (theo Châu Phi Cơ).
4- Faifo từ Hoài Phố mà ra (theo Phan Khoang).
5- Ngoài ra, có người cho rằng từ Faifo phát xuất từ cách hỏi tên đường của
người phương Tây đến Hội An hồi đó “Có phải phố không?”, người địa
phương trả lời “Phải phố.”, do không hiểu tiếng Việt nên “phải phố” được
chuyển thành Faifo.
Trong các cách giải thích trên, có lẽ Faifo từ Hoài Phố (phố chợ trên sông
Hoài – tên gọi của sông Thu Bồn ngày nay) có sức thuyết phục hơn cả.
Từ đầu thế kỷ XX, trong các văn bản chính quyền thực dân thường dùng từ
Faifo thay cho từ Hội An. Còn trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày, người
dân hay dùng từ phố để chỉ Hội An. [54, tr.1661]
4.1.2.2. Chu Lai
Vùng đất ở huyện Núi Thành. Nơi đây là khu kinh tế mở được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thành lập Ban chỉ đạo xây dựng theo Quyết định số
204/1999 ngày 18-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là khu kinh tế mở
đầu tiên của Việt Nam, có diện tích rộng 150km2. Địa danh này có hai cách lí
giải khác nhau:
1- Có người cho rằng địa danh này đã có từ thời nhà Nguyễn.
2- Vào năm 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào vùng này đã cho xây dựng ở đây
một sân bay, tên sân bay được đặt theo tháng xây dựng “July” (tháng 7). Chu
Lai do biến âm từ July mà ra. (Sân bay xây dựng trên vùng đất cát xã Tam
Nghĩa (NT), nằm phía đông đường sắt và quốc lộ 1A, có đường băng bằng bê
tông dài 3.050m, rộng 45m và một đường băng phụ dài 2.400m, rộng 30m.)
Cách lí giải thứ hai có sức thuyết phục hơn, vì những nguyên nhân sau:
1- Nguyên văn câu vè “Châu Lai, Châu Ổ bao xa” thực ra là “Sa Cần, Châu
Ổ bao xa”.
2- Nếu địa danh này ra đời dưới thời nhà Nguyễn thì sẽ được gọi tên là Châu
Lai (giống như cách gọi Châu Ổ - Quảng Ngãi, Châu Thành, …), vì kiêng
huý chúa Nguyễn Phúc Chu nên không bao giờ người dân gọi là Chu Lai.
3- Địa danh Chu Lai xuất hiện từ thời chống Mỹ (1965). Trong danh mục
làng xã trước đây không hề có địa danh này. (cf. Lê Trung Hoa) [37, tr.103]
4.1.2.3. Thạnh Mỹ
Vùng đất là nơi hai con sông Đắc My (từ Phước Sơn chảy về) và sông Thanh
(từ biên giới Lào về) gặp nhau để cùng đổ vào sông Bung. Nhân dân nơi đây
lấy từ Thanh ghép vào từ My thành tên gọi vùng đất: Thanh My (theo cách
gọi của đồng bào Cơ Tu).
Lại có ý kiến cho rằng: vùng đất Thạnh Mỹ hiện nay là vùng đất đá vôi (lớn
nhất ở Quảng Nam), có nhiều hang động, nhiều tảng đá rất đẹp nên được gọi
là Thạch Mỹ (từ gốc Hán Việt: vẻ đẹp của đá). Đây là cách gọi của người
Kinh.
Ngày nay, do bị biến âm nên gọi chệch đi thành Thạnh Mỹ (cf. Nguyễn Tri
Hùng). Thạnh Mỹ hiện nay là thị trấn của huyện Nam Giang.
4.1.2.4. Tr’Hy
Sau khi Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi, lập ra triều nhà Nguyễn, vị vua
này tiến hành truy sát binh lính của triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Một số
người dân vùng Đại Lãnh (ĐL) phải lánh nạn lên núi, cư trú tại vùng của
đồng bào dân tộc thiểu số. Tại nơi đây, họ được đồng bào Cơ Tu che chở,
nuôi nấng và trở thành dân làng. Những người Kinh chạy nạn này thường kể
cho đồng bào nghe việc làm tốt đẹp của quan quân nhà Tây Sơn là lấy đất
người giàu chia cho dân nghèo và thường nói câu “Tây Sơn hy hữu” (ít có
như Tây Sơn). Chính vì câu chuyện này mà người dân tại đây lấy luôn cụm
từ “Tây Sơn hy hữu” để đặt tên cho làng mình. Vì cái tên quá dài nên được
rút gọn lại là Tây Hy, về sau biến âm thành Tr’Hy. (cf. Nguyễn Tri Hùng)
Hiện nay, Tr’Hy là một xã của huyện Tây Giang, nằm giáp với nước bạn
Lào.
4.2. Giá trị phản ánh hiện thực
Địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Địa danh
chứa đựng những thông tin về chính trị, lịch sử, văn hoá, xã hội. Những
thông tin đó cho ta biết được đặc điểm của vùng đất cư trú. Cũng giống như
địa danh trên thế giới, địa danh Việt Nam, địa danh Quảng Nam cũng thế.
Khi nghiên cứu những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh, ta có thể tìm
ra những ý nghĩa về nhiều mặt của đời sống xã hội được thể hiện thông qua
địa danh. Không sai khi có người cho rằng địa danh giống như “vật hoá
thạch”, hay người khác lại cho rằng đó là những “đài kỷ niệm”. Trải qua lịch
sử hình thành gần 600 năm, địa danh Quảng Nam thể hiện rõ những giá trị
hiện thực như vậy.
4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch sử
Quảng Nam là vùng đất mang nhiều biến cố lịch sử. Có nhiều vùng đất, qua
những biến thiên của lịch sử, đã trở thành phế tích, nằm sâu dưới lớp phù sa
cũ và mới nhưng lịch sử hình thành và phát triển của nó vẫn tồn tại trong tên
của chính nó. Bên cạnh những di tích lịch sử cụ thể, địa danh cũng góp phần
ghi lại nhữn