Phú Yên là là vùng đất được khai sinh trong hành trình lịch sử Nam tiến của dân tộc ta, nằm ở
duyên hải Nam Trung bộ. Đây là địa bàn sinh sống của nhiều tộc người như: Ê đê, Chăm, Ba na,
Hoa, Tày, Nùng, Dao. trong đó phần lớn là người Kinh. Từ cơ cấu đa dạng về tộc người như vậy
dẫn đến sự đa dạng, phong phú của văn học dân gian. Trong đó, sử thi là một thể loại văn học dân
gian độc đáo, đã xuất hiện và lưu truyền khá lâu đời ở tỉnh Phú Yên. Cùng với số lượng lớn tác
phẩm sử thi ở Tây Nguyên, một số sử thi cũng được tìm thấy ở Phú Yên. Nó góp phần tạo nên diện
mạo đa dạng, khá phong phú cho thể loại.
Sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên chứa đựng giá trị nhiều mặt. Nó phản ánh sâu sắc đời sống
lịch sử xã hội người Chăm ở một vùng đất cao nguyên thuộc PhúYên. Nó cho thấy con người,
những tập tục, những khao khát cùng quan niệm sống của họ. Tìm hiểu sử thi dân tộc Chăm còn
giúp ta tìm hiểu những giá trị về văn hoá, văn học của một tộc người đã có sự biến đổi theo địa bàn
cư trú trong quá trình lịch sử phía Nam đất nước. Sự thay đổi về văn hóa trong quá trình cộng cư
giữa các tộc người đã thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên. Trong quá
trình cộng cư ấy, người Chăm ở Phú Yên đã có sự tiếp thu những nét văn hoá, nếp sống của đồng
bào dân tộc bản địa như Ba na, Ê đê ở khu vực này, tạo nên một tộc người Chăm ít nhiều có sự
khác biệt với tộc người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận. Điều đó lý giải vì sao sử thi Chăm Phú
Yên có nhiều nét tương đồng với sử thi Tây Nguyên trong nhiều mặt mà không thấy có ở các nhóm
Chăm vùng khác. Vì vậy, tìm hiểu đặc điểm sử thi Chăm ở Phú Yên ta sẽ thấy nét đặc trưng riêng,
vừa có nét ảnh hưởng của sử thi Tây Nguyên qua nếp sống, nếp nghĩ của tư duy người Chăm. Đó là
sự hài hoà, pha trộn tư duy Chăm nguyên thuỷ và tư duy của cộng đồng cư dân trong cuộc sống hoà
nhập trên địa bàn sinh sống
188 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2326 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm sử thi dân tộc chăm ở Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________
Nguyễn Đặng Hải Dương
ĐẶC ĐIỂM SỬ THI DÂN TỘC CHĂM
Ở PHÚ YÊN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn với Tiến
sĩ Hồ Quốc Hùng đã tận tình hướng dẫn, cung cấp và truyền
thụ cho chúng tôi những kiến thức quý báu trong nghiên cứu và
hoàn thành luận văn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Phòng
đào tạo sau đại học, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành chương
trình đào tạo và luận văn thạc sỹ.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phú Yên là là vùng đất được khai sinh trong hành trình lịch sử Nam tiến của dân tộc ta, nằm ở
duyên hải Nam Trung bộ. Đây là địa bàn sinh sống của nhiều tộc người như: Ê đê, Chăm, Ba na,
Hoa, Tày, Nùng, Dao... trong đó phần lớn là người Kinh. Từ cơ cấu đa dạng về tộc người như vậy
dẫn đến sự đa dạng, phong phú của văn học dân gian. Trong đó, sử thi là một thể loại văn học dân
gian độc đáo, đã xuất hiện và lưu truyền khá lâu đời ở tỉnh Phú Yên. Cùng với số lượng lớn tác
phẩm sử thi ở Tây Nguyên, một số sử thi cũng được tìm thấy ở Phú Yên. Nó góp phần tạo nên diện
mạo đa dạng, khá phong phú cho thể loại.
Sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên chứa đựng giá trị nhiều mặt. Nó phản ánh sâu sắc đời sống
lịch sử xã hội người Chăm ở một vùng đất cao nguyên thuộc PhúYên. Nó cho thấy con người,
những tập tục, những khao khát cùng quan niệm sống của họ. Tìm hiểu sử thi dân tộc Chăm còn
giúp ta tìm hiểu những giá trị về văn hoá, văn học của một tộc người đã có sự biến đổi theo địa bàn
cư trú trong quá trình lịch sử phía Nam đất nước. Sự thay đổi về văn hóa trong quá trình cộng cư
giữa các tộc người đã thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên. Trong quá
trình cộng cư ấy, người Chăm ở Phú Yên đã có sự tiếp thu những nét văn hoá, nếp sống của đồng
bào dân tộc bản địa như Ba na, Ê đê ở khu vực này, tạo nên một tộc người Chăm ít nhiều có sự
khác biệt với tộc người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận. Điều đó lý giải vì sao sử thi Chăm Phú
Yên có nhiều nét tương đồng với sử thi Tây Nguyên trong nhiều mặt mà không thấy có ở các nhóm
Chăm vùng khác. Vì vậy, tìm hiểu đặc điểm sử thi Chăm ở Phú Yên ta sẽ thấy nét đặc trưng riêng,
vừa có nét ảnh hưởng của sử thi Tây Nguyên qua nếp sống, nếp nghĩ của tư duy người Chăm. Đó là
sự hài hoà, pha trộn tư duy Chăm nguyên thuỷ và tư duy của cộng đồng cư dân trong cuộc sống hoà
nhập trên địa bàn sinh sống.
Đề tài “Đặc điểm sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên” góp phần vào việc giữ gìn những giá trị
văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số. Hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hoá của các dân tộc Việt Nam không chỉ là công việc của riêng dân tộc đó mà đã trở thành
nhiệm vụ quan trọng của xã hội và nhất là đối với các nhà khoa học.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Việc sưu tầm, nghiên cứu sử thi của các dân tộc thiểu số đang được tiến hành từ nhiều năm
nay và đã được viện Văn hoá cho in 16 tác phẩm hay tập sử thi hoàn chỉnh trong kho tàng sử thi Tây
Nguyên. Trong quá trình sưu khảo, có nhiều công trình nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên, nhưng
chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu riêng về sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên. Luận văn này
nhằm tìm hiểu thể loại với mong muốn tìm ra nét đặc trưng của nó tồn tại trong tộc người Chăm vốn
sống lâu đời ở vùng đất Phú Yên.
Với những nỗ lực và kết quả của việc nghiên cứu, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc
bảo tồn và gìn giữ di sản văn hoá tộc người Chăm ở Phú Yên đang có nguy cơ bị mai một dần. Đây
cũng là đóng góp nhỏ thiết thực trong quá trình gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
3. Lịch sử vấn đề:
Sử thi là tài sản quí báu của văn học việt Nam và của mọi dân tộc trên thế giới. Đó là tiếng nói
khẳng định những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc. Với những giá trị quí báu ấy, sử thi đã thu hút
rất nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu.
Sử thi ở Việt Nam được biết đến khi L.Sabatier công bố bản sưu tầm sử thi “Đăm San” vào
thập niên 30 của thế kỉ XX. Đây là bản sử thi đầu tiên mở đầu cho quá trình sưu tầm sử thi cho đến
thời điểm hiện tại. Đến năm 1963, tập Trường ca Tây Nguyên, do Y Điêng, Y Yung, Kơxo Blêu,
Ngọc Anh sưu tầm đã được xuất bản. Trong đó, các sử thi được sưu tầm là: “Xing Nhã”, “Đăm Di”,
“Đăm Đroăn”, “Khinh Dú”, “Y Prao”. Đây là những sử thi Ê đê. Sau năm 1975, công việc sưu tầm
sử thi được chú ý hơn và nhiều sử thi khác đã được phát hiện: “Giông Tư”, “Đăm Noi”, “Xing Chi
Ôn”, “Đăm Di đi săn”, “Xing Chơ Niếp”, “Chi Lơ Kok”,Đến nay các nhà sưu tầm đã sưu tầm
được hơn 800 tác phẩm sử thi, trong đó có 173 tác phẩm đã phiên âm và dịch nghĩa, 75 tác phẩm đã
được xuất bản. Trong hơn 800 tác phẩm sử thi đã sưu tầm, Mnông có gần 300 tác phẩm, Ê đê có 54
tác phẩm, Xơ đăng có 105 tác phẩm, Ba na và Gia rai có 238 tác phẩm, Raglai có 33 tác phẩm.
Trong đó, đặc biệt dân tộc Chăm Hroi có hai tác phẩm đã được xuất bản là: “Tiếng cồng ông bà
Hbia Lơ Đă” và “Chi Bri - Chi Brit”.
Từ khi bản sưu tầm sử thi Đăm San xuất hiện, công việc nghiên cứu sử thi đã được tiến hành.
Luận án “Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây Nguyên” của tác giả Võ Quang Nhơn đã
xác định đặc điểm của thể loại sử thi anh hùng về nội dung và thi pháp. Ông đưa ra những khuynh
hướng mới trong việc nghiên cứu sử thi. Và sau đó, có nhiều công trình khác ra đời như: “Sử thi
thần thoại H’Mông” của Đỗ Hồng Kỳ, “Đặc điểm nhóm sử thi dân tộc Ba na (Kon Tum)” của Phan
Thị Hồng, “Văn hoá mẫu hệ trong sử thi Ê đê” của Krông Buôn Tuyết Nhung. “Hệ thống nghệ thuật
của sử thi anh hùng Tây Nguyên” của Phan Nhân Thành. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Phan
Đăng Nhật đã có nhiều công trình nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên như: “Vùng sử thi Tây
Nguyên”, “Nghiên cứu sử thi Việt Nam”. Trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam”, các tác
giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn đã dành chương 6 để nghiên cứu về sử thi
anh hùng.
Tuy nhiên, về sử thi Chăm ở Phú Yên, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu
vào nghiên cứu cụ thể và hệ thống. Một vài bài viết mang tính chất nhận định, giới thiệu về sử thi ở
nơi này xuất hiện rải rác như lời giới thiệu của tác giả Phan Đăng Nhật ở hai cuốn sách: “Tiếng
cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Chi Bri - Chi Brit”. Nói chung, các bài viết chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu tác phẩm mà chưa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể.
Do vậy, cần có một cái nhìn hệ thống và đầy đủ hơn về sử thi Chăm ở Phú Yên. Đây là nhiệm
vụ khoa học mà luận văn của chúng tôi hướng đến khi nghiên cứu về sử thi Chăm ở Phú Yên.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là 5 tác phẩm sử thi của dân tộc Chăm. Chúng tôi cố
gắng làm rõ đặc điểm về cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ của nó. Từ những yếu tố này, có thể so sánh
với những tác phẩm sử thi cùng loại ở Tây Nguyên để xem mối quan hệ và những tương đồng về tư
duy nghệ thuật giữa các tộc người có quá trình lịch sử khác nhau.
Những tác phẩm khảo sát gồm:
- Trường ca Chi Liêu
- Trường ca Tiếng cồng ông bà Hơ Bia Lơ Đă
- Trường ca Anh em Chi Blơng
- Chi Bri, Chi Brit
- Trường ca Hbia Tà Lúi Ka Li Pu
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điền dã:
Ngoài văn bản đã có, chúng tôi đặt nhiệm vụ đi điền dã để trực tiếp kiểm tra sự tồn tại hiện
hữu của các sử thi. Phương pháp này cần thiết cho luận văn nhằm tìm hiểu về vùng đất, phong tục,
lối sống của tộc người Chăm Hroi trên tỉnh Phú Yên và sự lưu truyền sử thi Chăm - Phú Yên.
Chúng tôi đã đi điền dã ở vùng núi huyện Sơn Hoà, trung tâm của sử thi Chăm - Phú Yên và tìm
hiểu kiến thức thực tế về đời sống người Chăm Hroi nơi đây. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm đến người
sưu tầm sử thi Chăm - Phú Yên là ông Ka Sô Liễng, người dân tộc Chăm sưu tầm và biên dịch sử
thi Chăm - Phú Yên để tìm hiểu thêm về trình thức truyền miệng (oral- formulaic theory), không
gian diễn xướng của sử thi.
- Phương pháp phân tích tổng hợp:
Từ việc nghiên cứu những đặc điểm cụ thể của sử thi Chăm - Phú Yên, chúng tôi có cơ sở để
khái quát thành những đặc điểm mang tính chất đặc thù của đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp thống kê:
Thao tác chủ yếu trong luận văn này là thống kê những chi tiết, tần số xuất hiện của các môtip,
biện pháp nghệ thuật trong các tác phẩm để hình thành những đặc điểm có tính qui luật của sử thi.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu:
Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác biệt của sử thi
Chăm - Phú Yên với sử thi Tây Nguyên, từ đó nhận diện đặc điểm riêng của sử thi Chăm - Phú Yên.
- Phương pháp văn hóa học:
Dựa trên những kiến thức về văn hoá dân tộc Chăm và sự biến đổi của văn hoá dân tộc Chăm
trên vùng đất Phú Yên và sự giao thoa với các dân tộc sống gần gũi nơi đây, chúng tôi có cơ sở để
tìm hiểu những diễn biến, sự hình thành về đặc điểm sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên.
6. Những đóng góp mới của luận văn:
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng bước đầu xác định đặc điểm cơ bản của sử thi Chăm -
Phú Yên trong sự đối sánh với sử thi Tây Nguyên.
7. Cấu trúc của luận văn:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương I: Tổng quan về văn hóa và sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
1.1. Những đặc điểm cơ bản của dân tộc Chăm ở Phú Yên
1.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế các tỉnh miền núi Phú Yên
1.1.2. Sự phân bố dân cư các dân tộc thiểu số ở Phú Yên
1.1.3. Nguồn gốc người Chăm ở tỉnh Phú Yên
1.1.4. Một số đặc điểm văn hoá người Chăm - Phú Yên
1.1.5. So sánh người Chăm ở Phú Yên và người Chăm ở vùng lân cận ..
1.2. Khảo sát tư liệu sử thi Chăm - Phú Yên
1.2.1.Tên gọi
1.2.2. Số lượng thống kê
1.2.3. Tình hình tư liệu
1.2.4.Trình thức kể và không gian diễn xướng sử thi Chăm - PhúYên
1.2.5. Các sử thi được khảo sát
Chương II. Đặc điểm cấu tạo cốt truyện sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
2.1. Đề tài
2.2. Kết cấu cốt truyện
2.2.1. Tính hoàn chỉnh trong kết cấu sử thi Chăm - Phú Yên
2.2.2. Kết cấu đa sự kiện của sử thi Chăm - Phú Yên
2.3. Một số môtip trong cốt truyện sử thi Chăm - Phú Yên
2.3.1. Môtip “Sự cản trở trên đường đi”
2.3.2. Môtip “Băng rừng vượt núi”
2.3.3. Môtip “Sự giúp đỡ thần kì”
2.3.4. Môtip “Rèn luyện trước khi chiến đấu”
2.3.5. Môtip “Thuyết phục kẻ thù giảng hoà”
2.3.6. Môtip “Không thu nhận của cải, buôn làng kẻ đối địch khi thắng trận”
Chương III. Đặc điểm cấu tạo nhân vật sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
3.1. Nhân vật anh hùng
3.1.1. Đặc điểm về xuất thân, lai lịch
3.1.2. Đặc điểm về vẻ đẹp ngoại hình và sức mạnh
3.1.3. Đặc điểm về tâm lý, tính cách
3.1.4. Đặc điểm về hành động
3.1.4.1. Nhân vật anh hùng trong làm lụng
3.1.4.2. Nhân vật anh hùng trong hôn nhân
3.1.4.3. Nhân vật anh hùng trong chiến đấu
3.2. Các nhân vật khác
3.2.1. Nhóm nhân vật đối địch
3.2.2. Nhóm nhân vật người đẹp
3.2.3. Nhóm nhân vật dân làng
3.3.4. Nhóm nhân vật thần linh
Chương IV. Ngôn ngữ sử thi dân tộc Chăm ở PhúYên
4.1. Tính giàu hình tượng trong ngôn ngữ sử thi Chăm - Phú Yên
4.1.1. Biện pháp so sánh
4.1.2. Biện pháp mô phỏng
4.1.3. Biện pháp sử dụng con số trong sử thi
4.1.4. Biện pháp lặp cấu trúc
4.2. Tính thần kì và hào hùng trong ngôn ngữ sử thi Chăm - Phú Yên
4.3. Tính nhạc điệu trong sử thi Chăm - Phú Yên
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ VÀ SỬ THI DÂN TỘC CHĂM Ở PHÚ YÊN
1.1. Những đặc điểm cơ bản của dân tộc Chăm ở Phú Yên:
1.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế các tỉnh miền núi Phú Yên:
Phú Yên là tỉnh ở khu vực duyên hải miền Trung, phía bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam
giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, phía Đông giáp biển
Đông. Các huyện miền núi Phú Yên đều nằm ở sườn phía Đông của dãy Trường Sơn nên khí hậu có
đặc điểm chung là vừa chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng Tây Nguyên, vừa chịu ảnh hưởng khí hậu
vùng duyên hải với hai mùa mưa và nắng.
Cũng như các tỉnh nằm dọc ven biển miền Trung, Phú Yên là địa bàn có nhiều sông suối, hầu
hết đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và chảy qua địa hình đồi núi. Về đất đai, các huyện miền núi
có các loại đất như đất xám với đặc điểm là tầng đất mỏng, lẫn nhiều đá, nghèo chất hữu cơ và đạm.
Đất đen, đất đỏ, vàng có lợi thế về trồng trọt và chăn nuôi. Điều đó cho thấy vùng núi Phú Yên có
nhiều lợi thế trong việc phát triển nông nghiệp với hai nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi. Rừng
núi Phú Yên là nơi tập trung nhiều loại gỗ quí và nhiều loại thổ sản hiếm với nhiều loại dược thảo là
những nguyên liệu quí. Rừng còn là nơi trú ngụ của nhiều động vật lớn như bò, cọp, gấu, hươu, nai,
thỉnh thoảng còn có tê giác.
Như vậy, vùng núi Phú Yên nơi địa bàn người Chăm và các tộc người khác sinh sống, địa
hình thường bị chia cắt bởi sông suối và núi đồi. Đất đai tuy rộng lớn nhưng hầu hết nằm ở địa bàn
đất kém màu mỡ, khả năng khai thác hạn chế. Tuy vậy, trong quá trình sinh sống, lao động và sản
xuất, các dân tộc đã biết cách hoà nhập với thiên nhiên, tạo ra những giá trị văn hoá phong phú và
đa dạng, còn lưu lại đến ngày nay.
1.1.2. Sự phân bố dân cư các dân tộc thiểu số ở Phú Yên:
Phú Yên có 3 huyện miền núi là Sông Hinh, Sơn Hoà, Đồng Xuân. Đây là các huyện có người
Chăm và các dân tộc thiểu số khác sinh sống. Huyện Sông Hinh nằm ở phía Tây Nam tỉnh, tiếp giáp
với huyện Ninh Hoà (tỉnh Khánh Hoà), phía Bắc giáp huyện Sơn Hoà , phía Tây giáp huyện
Krôngpa (tỉnh Gia Lai). Nơi này tập trung người Chăm, Ê đê, Ba na, Tày, Nùng. Người Ê đê là dân
tộc thiểu số cư trú đông nhất. Số dân cư Chăm ở đây khoảng 1270 người. Huyện Sơn Hoà nằm ở
phía Tây tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp huyện Sông Hinh, phía Bắc giáp huyện Đồng Xuân, phía
Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp huyện Phú Hoà. Huyện này tập trung dân tộc Chăm, Ê đê, Ba
na là chính. Ở huyện Sơn Hoà, người Chăm cư trú khoảng 9403 người và là tộc người cư trú đông
nhất. Huyện Đồng Xuân nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp huyện Sơn Hoà, phía
Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp huyện Tuy An và Sông Cầu.
Huyện này rải rác là cư dân Chăm và Ba na. Số dân cư Chăm ở đây khoảng 6842 người.
Như vậy, tổng số người Chăm ở tỉnh Phú Yên khoảng 17.515 người sống tập trung ở ba
huyện miền núi: Sơn Hoà, Sông Hinh và Đồng Xuân. (Số liệu thống kê năm 2000 của Sở văn hoá
thông tin tỉnh Phú Yên)
1.1.3. Nguồn gốc người Chăm ở tỉnh Phú Yên:
Về nguồn gốc của người Chăm ở Phú Yên có nhiều ý kiến:
Sogny trong bài viết năm 1937 “Một vài hiểu biết trên một đảo nhỏ của dân tộc Chăm
sống ở các huyện Đồng Xuân và Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên”, cho rằng: “Người Chăm ở hai huyện
Đồng Xuân và Sơn Hoà chính là hậu duệ của cư dân đất Chăm Pa. Ở thời kì này (1377-1388), nước
Chăm pa đầu hàng trước kẻ thù và cư dân đã có sự phân tán, sống chung lẫn lộn với người Ba na
và Ê đê. Sau nhiều thế hệ, họ đã chung sống và chan hoà nhau. Hiện nay, họ vẫn hồi tưởng lại một
cách tội nghiệp về gốc gác của mình và về phương diện ngôn ngữ họ vẫn còn nói tiếng nói của đất
nước Chăm pa” [125, tr.2]
Theo các tài liệu lịch sử cho biết, sau khi Chế Bồng Nga chết, Chiêm Thành bước vào thời kì
suy tàn và trở thành một phiên thuộc của nhà nước phong kiến Đại Việt. Năm 1457, chúa Nguyễn
cử Lương Văn Chánh vào đánh thành Hồ và mở đầu cuộc khẩn hoang lập ấp, người Chăm lui về
sống trên vùng núi. Nhà nghiên cứu Phan Khoang trong “Việt sử xứ Đàng Trong” viết: “Sau khi
đất Phú Yên ngày nay trở vào Nam bị các chúa Nguyễn đánh chiếm thì một số người Chăm lên sinh
sống với người Mọi” [125, tr.3]. Theo đó, người Chăm Hroi trước kia là thần dân của vương quốc
Chiêm Thành cũ di tản lên vùng núi tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và
một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng. Người Chăm ở Phú Yên có cùng hệ Chăm
với Ninh Thuận, Bình Thuận. Tuy nhiên, trong những sinh hoạt thường nhật nhiều yếu tố đã bị ảnh
hưởng, lai tạp. Có thể lý giải là do một bộ phận người Chăm do cách ly với cộng đồng khá lâu nên
không còn giữ được một số yếu tố truyền thống văn hoá nhưng lại tiếp thu văn hoá của các dân tộc
bản địa. Chẳng hạn như người Chăm ở đây có thể nói được tiếng Ê đê. Thậm chí một số bộ phận
sống trong rừng già tự nhận là dân tộc Chăm nhưng sinh hoạt của họ mang nặng bản sắc Ê đê hơn.
Tóm lại, người Chăm đang cư trú tại Phú Yên hiện nay thật sự là con cháu của cư dân Chăm
pa, đã lên miền núi sinh sống qua nhiều thế hệ. Do cách ly với cộng đồng lâu ngày nên trong đời
sống, kinh tế, xã hội và văn hoá có những khác biệt so với cộng đồng người Chăm đang sống tại
Ninh Thuận, Bình Thuận và các nơi khác. Tuy nhiên, họ vẫn tự nhận mình là người Chăm. Điều đó
phản ánh khá rõ trong tên gọi, nguồn gốc dân tộc, và trong một số đặc trưng về văn hoá.
Người Chăm - Phú Yên có nhiều tên gọi dân tộc gắn với địa danh nơi họ sống hoặc đặc điểm
nơi họ sống. Chẳng hạn như người Chăm sống ở suối Hà Đang, huyện Đồng Xuân tự nhận mình là
người Chăm Hà Đang. Người Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các
tỉnh Phú Yên và Bình Định là H’roi hay Hờ Roi. Nói chung, Chăm Hroi là tên gọi tộc người Chăm
sống ở vùng núi phía Tây Bình Định và Phú Yên. Nguồn gốc của tên Chăm Hroi này được Ka Sô
Liễng, nhà sưu tầm văn học dân gian giải thích: “Đây là tên gọi chung chỉ người Chăm sống ở vùng
thấp gần người Kinh nhằm phân biệt một bộ phận người Chăm sống ở rừng già, thường gọi là Chăm
Dlay Yưa”. Tên gọi này đã phân biệt cộng đồng Chăm sống ở vùng núi Bình Định, Phú Yên và
cộng đồng Chăm sống tại đồng bằng của Ninh Thuận, Bình Thuận, và các tỉnh Nam Bộ.
Như vậy, có thể gọi người Chăm sống tách biệt với cộng đồng Chăm gốc ở Ninh Thuận, Bình
Thuận và hiện tại đang sống ở Bình Định, Phú Yên là Chăm Hroi. Tên gọi người Chăm ở Phú Yên
nhằm xác định rõ địa danh và nơi sinh sống của cộng đồng người Chăm Hroi là ở Phú Yên để phân
biệt với người Chăm Hroi sinh sống ở Bình Định.
1.1.4. Một số đặc điểm văn hoá người Chăm - Phú Yên:
Dân tộc Chăm cũng giống như các dân tộc ít người khác sinh sống ở Phú Yên, họ sống dọc
theo dãy Trường Sơn từ Sông Hinh đến huyện Vân Canh tỉnh Bình Định. Người Chăm Hroi tìm nơi
hiểm hóc như đỉnh núi cao, thung lũng có núi non bao bọc xung quanh để sinh sống. Do cư trú trong
những vùng đất có điều kiện tự nhiên và địa hình không thuận lợi, trong hoạt động kinh tế, người
Chăm - Phú Yên tồn tại nhiều loại hình như săn bắt, hái lượm, làm ruộng, các nghề thủ công, trồng
cây, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Làm rẫy là loại hình sản xuất nông nghiệp chủ yếu của những người Chăm - Phú Yên. Họ
chọn đất làm rẫy ở rừng thưa vì rừng già là nơi Yàng ngự trị, không ai được xâm phạm. Trước khi
phát rẫy, họ phải làm gà cúng Yàng đất cầu mong cho được mạnh tay khoẻ chân. Người Chăm - Phú
Yên có nhiều điều cấm kị liên quan đến Yàng.Trong chăn nuôi, người Chăm - Phú Yên ít chú ý
chăm sóc gia súc, gia cầm mà hầu như phó mặc cho thiên nhiên, may rủi. Khi gặp dịch bệnh, họ đập
bò, giết trâu, mổ heo cúng Yàng, cầu xin sự giúp đỡ của thần linh. Săn bắt, hái lượm là một phương
thức lao động của người Chăm - Phú Yên. Họ thường cầm dao, ná, rựa, dây đi săn với hai hình thức
săn tập thể và săn cá nhân. Người Chăm - Phú Yên theo chu kì vào rừng để hái lượm các sản phẩm
của rừng như măng, nấm, mật ong, cánh kiến, hoa quả, thuốc chữa bệnh, các loại lá, rễ, cây có thể
ăn được. Các nghề thủ công truyền thống là những nghề dệt vải và nghề đan.
Người Chăm - Phú Yên có tính cộng đồng cao. Khi người ở địa phương khác hoặc dân tộc
khác xâm phạm quyền lợi, danh dự của người dân trong cộng đồng, trước tiên người Chăm - Phú
Yên tập hợp lại khuyên bảo. Nếu những người này không nghe cộng đồng mới xử phạt. Trong cộng
đồng, người dân sẵn sàng