Đất rừng và rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của con người và mọi sự sống
trên trái đất. Sự tồn tại của hành tinh chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên đất,
tài nguyên rừng dùng để sản xuất ra của cải vật chất phục vụ con người
Nếu mục đích sử dụng đúng dắn và quản lý tốt thì sẻ cung cấp cho nhu cầu của
chúng ta không bao giờ cạn, ngược lại nếu quản lý kém thì rừng sẽ nhanh chóng xuống
cấp cả về số lượng và chất lượng và không còn cung cấp cho con người những thứ
cần thiết
Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha. Trong đó diện tích đất
đồi núi là 23 triệu ha chiếm 70% diện tích tự nhiên của cả nước. Rừng và đất rừng từ
trước đến nay chưa được khai thác sử dụng hợp lý. Đất chưa sử dụng còn rất lớn
khoảng 13,1 triệu ha, chiếm 40% diện tích của cả nước ( trong đó hơn 1 triệu ha là đất
trống đồi núi trọc) cùng với sự phát triển của xã hội vai trò của tài nguyên đất, tài
nguyên rừng cũng trở nên quan trọng hơn và đòi hỏi phải có sự quản lý sử dụng một
cách hiệu quả bền vững.
Trong những năm qua nhà nước đã có nhà nước có chủ trương về giao đất,
giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để và quản lý bảo vệ và sản xuất,
nhưng thực tế triển khai còn chậm. Việc giao rừng chưa gắn liền với giao đất lâm
nghiệp, nhiều khu rừng chưa có chủ quản lý thực sự trong khi ở nhiều nơi người dân
miền núi vẫn thiếu đất sản xuất không có điều kiện tham gia vào sản xuất nghề rừng
phát triển kinh tế, dẩn đến tình trạng tranh chấp đất đai, xâm lấn đất rừng, gây nhiều
khó khăn phức tạp trong công tác quản lý đất đai và tài nguyên rừng.
53 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá hiệu quả công tác giao đất, giao rừng nhằm đề xuất những biện pháp quản lý đất rừng trên địa bàn Thị trấn Nông trường Lệ Ninh – Huyện Lệ Thủy – Tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đánh giá hiệu quả công tác giao đất, giao
rừng nhằm đề xuất những biện pháp quản
lý đất rừng trên địa bàn Thị trấn Nông
trường Lệ Ninh – huyện Lệ Thủy – Tỉnh
Quảng Bình
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của
bản thân tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ rất chân thành.
Tôi xin chân thành được bày tỏ lòng biết ơn quý thầy cô giáo đã tận tình dạy
bảo truyền đạt những kiến thức cần thiết trong suốt thời gian học tập và thực tập vừa
qua.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Đình Quang
người đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến các cán bộ tại Phòng nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Lệ Thuỷ và UBND thị trấn Lệ Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi
trong quá trình thực tập, thu thập số liệu, một lần nửa tôi xin chân thành cảm ơN.
Tuy nhiên trong quá trình thực tập hoàn thành khoá luận tốt nghiệp tuy đã có
nhiều cố gắng, nhưng không thể tránh khỏi sự thiếu sót, rất mong sự góp ý, chỉ bảo của
thầy cô giáo và bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Dương Văn Hùng
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất rừng và rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của con người và mọi sự sống
trên trái đất. Sự tồn tại của hành tinh chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên đất,
tài nguyên rừng dùng để sản xuất ra của cải vật chất phục vụ con người
Nếu mục đích sử dụng đúng dắn và quản lý tốt thì sẻ cung cấp cho nhu cầu của
chúng ta không bao giờ cạn, ngược lại nếu quản lý kém thì rừng sẽ nhanh chóng xuống
cấp cả về số lượng và chất lượng và không còn cung cấp cho con người những thứ
cần thiết
Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha. Trong đó diện tích đất
đồi núi là 23 triệu ha chiếm 70% diện tích tự nhiên của cả nước. Rừng và đất rừng từ
trước đến nay chưa được khai thác sử dụng hợp lý. Đất chưa sử dụng còn rất lớn
khoảng 13,1 triệu ha, chiếm 40% diện tích của cả nước ( trong đó hơn 1 triệu ha là đất
trống đồi núi trọc) cùng với sự phát triển của xã hội vai trò của tài nguyên đất, tài
nguyên rừng cũng trở nên quan trọng hơn và đòi hỏi phải có sự quản lý sử dụng một
cách hiệu quả bền vững.
Trong những năm qua nhà nước đã có nhà nước có chủ trương về giao đất,
giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để và quản lý bảo vệ và sản xuất,
nhưng thực tế triển khai còn chậm. Việc giao rừng chưa gắn liền với giao đất lâm
nghiệp, nhiều khu rừng chưa có chủ quản lý thực sự trong khi ở nhiều nơi người dân
miền núi vẫn thiếu đất sản xuất không có điều kiện tham gia vào sản xuất nghề rừng
phát triển kinh tế, dẩn đến tình trạng tranh chấp đất đai, xâm lấn đất rừng, gây nhiều
khó khăn phức tạp trong công tác quản lý đất đai và tài nguyên rừng. Để góp phần thực
hiện tốt công tác giao đất, giao rừng nhằm phát huy sức mạnh của lâm nghiệp miền
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
núi, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là dân tộc ở vùng sâu, vùng xa có đời sống
khó khăn, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thì việc đi
sâu tìm hiểu sớm tìm ra những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy nhanh tiến trình thực hiện
công tác giao đất,giao rừng là hết sức cần thiết
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách về lý luận và thực tiễn chúng tôi thực hiện đề tài
“đánh giá hiệu quả công tác giao đất, giao rừng nhằm đề xuất những biện pháp
quản lý đất rừng trên địa bàn Thị trấn Nông trường Lệ Ninh – huyện Lệ Thủy –
Tỉnh Quảng Bình “
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
PHẦN II.TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Các giai đoạn phát triển và chính sách có liên quan đến công tác giao đất, giao
rừng ở Việt Nam.
* Giai đoạn 1968-1982.
Đây là thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trên cơ sở phát triển quốc tế
quốc doanh và hợp tác xã, chưa giao đất cho hộ gia đình.
Các lâm trường quốc doanh là loại chủ ruqngf chủ yếu, được nhà nước đầu tư để
trồng rừng và giữ quyền sở hữu chủ yếu khoảng 70% tổng diện tích rừng trồng tập
trung, hợp tác xã trồng rừng chủ yếu là để nhận tiền công lao động do nhà nước trả là
chính. Chưa có quyền sở hữu trồng rừng nên chưa quan tâm kết quả rừng của mình gây
trồng nên. Tuy vậy cũng có một số ít hợp tác xã sử dụng nhân lực và nguòn vốn của
mình để trồng nên có quyền sở hữu một số khu rừng do hợp tác xã đầu tư.
*Giai đoạn 1982-1992.
Vào những năm đầu 1980 là thời kì nhà nước đang nghiên cứu cải thiện quản lí
hợp tác xã. Trong nghành lâm nghiệp nhất là giai đoạn cuối của thời kì này chủ trương
chính sách giao đất, giao rừng đến từng hộ gia đình đã cụ thể và đẩy mạnh hơn.
Ngày 6/11/1982 Hội Đồng Bộ Trưởng ra quyết định số 24 về việc đẩy mạnh
giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây rừng .
Ban chấp hành TW Đảng ra chỉ thị số 29/CT – TW ngày 12/11/1983 về việc
đẩy mạnh giao đất, giao rừng xây dựng và tổ chức kinh doanh theo nông lâm kết hợp.
Sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VI (1988) Đảng và nhà nước chủ trương đổi
mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế nhiều thành phần, phát triển
kinh tế hàng hoá gắn với kinh tế thi trường theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa dưới
quản lí của nhà nước. Chú trọng phát triển kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản
tự chủ.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Thông tin bộ số 01/TT/LB ngày 06/02/1991đã hướng dẫn việc giao đất, giao
rừng cho các tổ chức, cá nhân vào mục đích lâm nghiệp.
Ngày 15/09/1992 chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã ra quyết định số 4A47-CT
về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trồng, đồi núi trọc, bãi bồi ven biển và mặt
nước trong đó ban hành chíng sách hỗ trợ 40% tổng vốn đầu tư đần cho các hộ gia đình
vay theo nguyên tắc lấy lãi, việc hoàn trả vốn vay bắt đầu từ lúc có sản phẩm . Ngày
22/01/1992 chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã ra quyế định số 264/CT về chính sách đầu
tư phát triển rừng. Quyết định này giải quyết khó khăn về vốn cho nhân dân trồng cay
lâm nghiệp ở vùng định canh định cư. Nhà nước hỗ trợ vố không lấy lãi và cũng từ đây
nghành lâm nghiệp đã cùng với các địa phương vận dụng và thực hiện giao đát giao rừng
đã có những tiến bộ đáng kể mang lại khởi sắc cho nghề rừng nước ta. Tại những nơi
thực hiện đúng chính sách giao đất, giao rừng thì rừng có người làm chủ cụ thể không
còn tình trạng chủ rừng chung chung mà thực chất là vô chủ. Vì vậy người nông dân đã
yên tâm vào việc kinh doanh rừng và bồi bổ đất đai, nhiều nơi đã có sản phẩm hàng hoá,
diện tích đất trống đồi núi trọc đã được đưa vào khai thác sử dụng ngày càng tăng, nhiều
mô hình sản suất theo phương thức nông lâm kết hợp, làm vườn rừng làm trang trại khá
phổ biến ở nhiều địa phương. Qua nhận đất rừng đời sống của người dân được nâng lên
rõ rệt. Những hộ nông dân và công nhân lâm trường thường nhận đất, nhận rừng thu
hoạch từ rừng vài chục triệu đòng hàng năm không còn là hiện tượng hiếm thấy. Đây là
những tiến bộ ban đầu đáng khích lệ của công tác giao đất, khoán rừng giai đoạn này.
* Giai đoạn 1993- 2003
Đầu năm 1993 Đảng và Nhà Nước ta đã ban các nghị quyết, chủ trương và
chính sách nhằm thực hiện triệt để công tác giao đất, giao rừng.
Nghị quyết TW lần thứ V về tiếp tục đổi mới và phát triển nông thôn, đã nhấn mạnh
“Đổi mới cơ chế nganh lâm nghiệp phổ biến giao khoán rừng và đất rừng phù hợp với
quy định và phương thức phát triển từng vùng, từng loại rừng”
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Luật đất đai đã được quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ ngày
15/10/1993. Đây là một sắc lệnh quan trọng về đất đai, cụ thể hoá điều 17.18 hiến pháp
năm 1992, Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Việc Quốc hội thông qua luật đất đai vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hửu
toàn dân vè đất đai, vừa phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế Hàng
hoá, bắt đầu tiếp cận cơ chế thị trường hiện đại.
Nghiên cưú tổng quát về những sửa đổi bổ sung về chính sách đất đai thời kì này có
thể nhận thấy những vấn đề lưu ý nổi bật sau:
Cũng cố tăng cường sở hữu toàn dân về đất đai , tăng cường vai trò quản lý
thóng nhất của cả nước.
Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng
lâu dài vào muc đích do nhà nước quyết định.
Nhà nước xác định các loại đất tính thuế, chuyển quyền sử dụng đất thu tiền khi
giao đất hoặc cho thuê, đánh giá tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi họ
thu hồi.
Về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử
dụng đất đã được xác định tạo tính pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng
đất thực sự làm chủ về sản xuất kinh doanh trên đất được giao.
Theo nghị định chính phủ đã ban hành.
Nghị định 64- CP (1993) về giao đất nông nghiệp
Nghị định 02- CP (1994) giao đất lâm nghiệp cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất đai
vào mục đích nông lâm nghiệp.
Nghị định số 202- CP/TTg (1994) về khoản, quản lý bảo vệ rừng.
Ngành lâm nghiệp đã có thông tư số 06- LN (1994) về giao đất lâm nghiệp.
Nghị định số 01/CP (01/11/1995) về giao khoán và sử dụng vào mục đích nông lâm
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, trong các doanh nghiệp nhà nước.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Quyết định số 661/QĐ-TTg (29/07/1998) về chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng
Nghị định 163/CP (16/11/1999) thay thế cho nghị định 02/CP về giao đất cho
thuê đất lâm nghiệp cho cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp. Người dân được nhận đất lâm nghiệp có quyền sử dụng đất kế thừa, chuyển
nhượng, thế chấp và chuyển đổi sử dụng đất theo quy định của pháp luật, hạn chế mức
giao đất cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân do UBND tỉnh quyết định nhưng không
quá 30ha. Thời gian giao đất, cho thuê đất cho các tỏ chức, cá nhân, hộ gia đình là 50
năm, hết thời hạn nếu tổ chức,hộ gia đình, cá nhân vẫn có nhu cầu sử dụng đất đúng
mục đích thì được nhà nước giao tiếp nếu các loại cây trên 50 năm thì sau 50 năm nhà
nước sẽ giao tiếp đến khi thu hoạch sản phẩm chính.
* Giai đoạn 2003 đến nay.
Trên quan điểm tiếp cận, quản lý nguồn tài nguyên có sự tham gia đặc biệt quản
lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng, đối với ngành lâm nghiệp giai đoạn 2001 –
2010, Bộ NN và PTNT đã đề cập ra các biện pháp và cơ chế chính sách xác định rõ
quyền sử dụng đất đai và tài nguyên rừng cho các tổng công ty, công ty lâm nghiệp,
các lâm trường quốc doanh các thành phần kinh tế khác và hộ gia đình .... để ổn định
sản xuất lâu dài.
Từng bước tiến hành giao đất và phát triển rừng cộng đồng trên cơ sở nghiên
cứu cơ chế và ban hành các quy định cụ thể trong việc bảo vệ, phát triển, sử dụng và
kinh doanh các loại rừng này.
Đối với lâm nghiệp giao cho từng hộ cá nhân gia đình, thúc đẩy nông lâm kết
hợp góp phần xoá đói giảm nghèo.
Mở rộng và cũng cố quyền của người được giao đất, cũng như làm rõ và đơn giản hoá
để có thể thực hiện các quyền của người sử dụng.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Định hướng của chính sách lâm nghiệp cũng được đề cập trong giai đoạn này
nhằm cung cấp các hướng dẩn cho ngành lâm nghiệp trong một thời gian dài về quản
lý sử dụng tài nguyên rừng Quốc Gia và hướng dẩn luật pháp về phát triển kinh tế, xã
hội và bảo vệ môi trường.
Nhìn chung giai đoạn này nhà nước đã đầu tư nguồn lực để ban hành và sửa đổi
điều chỉnh nhiều chính sách liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng như:
* Luật đât đai: Luật quản lý và phát triển rừng.
* Nghị định số 163 về giao khoán đất lâm nghiệp chủ hộ gia đình và tổ chức.
Mặt khác trong quá trình tiếp cận, nhiều hoạt động chú trọng đến sự tham gia
của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài nguyên dựa vào
cộng đồng cụ thể đó là QHSD đất, giao đất lâm nghiệp có sự tham gia quản lý rừng
dựa vào cộng đồng.
Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi cơ
bản trong chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và
tác dụng tích cực của kinh tế hộ gia đình trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, bảo
đảm bình đẳng quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình,cá
nhân trên diện tích đất lâm nghiệp được giao. Đây chính là động lực trực tiếp kích
thích người dân nhận đất, nhận rừng để sản xuất kinh doanh, kinh tế hộ gia đình có
điều kiện phát triển hơn.
Mỗi người dân nói chung, đặc biệt là nông dân miền núi, rất phấn khởi thực
hiện chính sách trên, chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng và nhà nước đến nay đã
đi vào cuộc sống của người dân miền núi bao đời nay gắn bó với rừng.
Giao đất lâm nghiệp nước ta được hình thành như là một cấu thành đổi mới kinh
tế hiện nay. Muốn quản lý bảo vệ rừng thì mỗi khu rừng phải có chủ rừng và chủ rừng
phải có lợi ích thực sự từ rừng và nghề rừng.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Thực tế cho thấy thông qua kết quả giao đất, giao rừng ở địa phương trong cả
nước đã thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng phủ xanh đât trống đồi núi trọc, tăng độ che
phủ của rừng, tạo các vùng công nghiệp, cây ăn quả, cây nguyên liệu tập trung, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân trong vùng. Điển hình
làm tốt như các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thanh Hoá, Quảng Bình.
Có thể từ sau khi có luật đất đai 1993, luật bảo vệ và phát triển rừng, các chính
sách nhà nước ta đã được chú trọng đến quyền lợi của người dân và việc tham gia của
người dân trong việc sử dụng đất ngày càng được gia tăng cường.
Tuy nhiên một số tồn tại đã bộc lộ trong quá trình thực hiện chính sách như:
Chính sách giao đất cho người dân đã có, nhưng tại sao thực hiện không có hiệu quả và
còn nhiều vướng mắc, giữa chính sách và thực hiện có gì bất cập? Vì sao việc cấp giấy
phép về quyền sử dụng đất lại rất khó khăn.
Việc nhà nước “ cho thuê đất “ mà đối tượng là tổ chức, hộ gia đình,cá nhân
trong nước và ngoài nước.... Đồng thời xác lập quyền cho thuê, chuyển đổi, chuyển
nhượng sử dụng đất có khe hở trong chính sách hay không. Có cần thêm những quy
định cụ thể cho điều này?
2.2 Những thành quả của hoạt động giao đất, giao rừng.
Hoạt động giao đất, giao rừng là một công cụ hữu ích trong quản lý và sử
dụngđất lâm nghiệp, tuy nhiên tuỳ theo rừng giai đoạn lịch sử của xã hội và chính sách
hỗ trợ mà hiệu quả mang lại mà hoạt động giao đất, giao rừng có khác nhau.
* Từ giai đoạn 1968 – 1992
Những chính sách xây dựng nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền núi có
nhiều mặt không phù hợp, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, lâm nghiệp làm rập
khuôn như đồng bằng là không phù hợp với tính chất và lực lượng sản xuất ở miền núi.
Khoản 10 đối với đồng bào miền núi được hiểu như là sự giải thể hợp tác xã nông
nghiệp các hộ gia đình nhận lại ruộng đất, rừng của mình trước khi vào hợp tác xã, tình
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
trạng này dẫn đến tranh chấp đất đai giữa các cộng đồng dân cư trong thôn bản, và dân
miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới. Tuy nhiên hiệu quả chính sách giao đất, giao
rừng trong thời kì này chưa cao, nhưng chính sách giao đất giao rừng đã khuyến khích
tạo động lực phát triển nông lâm nghiệp ở miền núi. Bước đầu hình thành nên thị
trường trung du và miền núi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa chính sách giao đất lâm
nghiệp nhiều hạn chế.
Qua thực tế cho thấy ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá nhân nhận rừng
mà tổ chức kinh doanh đã có thu nhập rừng đáng kể, do xác định được cơ cấu cây trồng
thích hợp với điều kiện khí hậu đất đai ở nhiều địa phương như: Huế, Quảng Nam,
Quảng Ninh.
Qua 24 năm thực hiện công tác giao đất, giao rừng (1968- 1992) đã giao được
tổng số trên 11 triệu ha tron đó 5,8 triệu ha giao cho các đơn vị quốc doanh: 1,3 triệu
ha giao cho hộ gia đình, 3,7 triệu ha giao cho hợp tác xã nông nghiệp, nên thực tế mới
chỉ sử dụng 30% diện tích giao số còn lại vẫn không được khai thác, bảo vệ mà vẫn
còn hoang hoá, thực tế này chứng tỏ chủ trương giao đất, giao rừng trong giai đoạn này
chưa tạo điều kiện tích cực trong việc quản lý, bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên
rừng.
* Giai đoạn 1993- 2003
Đây là giai đoạn có những thay đổi cơ bản trong quản lý, sử dụng rừng và đất
rừng ở Việt Nam, là sự ra đời của luật đất đai. Nghị định 02/ CP nghị định 163/CP
công tác giao đất lâm nghiệp đã được thực hiện theo những nguyên tắc và quy định
mới.
Theo số liệu thống kê của cục kiểm lâm, đên cuối năm 1999 cả nước giao được
8.786.572 ha đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đạt 59% tổng diện
tích quy hoạch cho sản xuất lâm nghiệp. Trong quy hoạch đất lâm nghiệp 3 loại rừng
teo mục đích sử dụng: Rừng đặc dụng 2.119.547ha đã được giao 972.375 chiếm 46%.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
Rừng phòng hộ 6.8 triệu ha đã được giao 3.196.343 ha chiếm 47%. Rừng sản xuất 9,6
triệu ha đã được giao 4.617.872ha chiếm 48%. Trong đó giao cho 27.312 tổ chức với
diện tích là 1.173ha chiếm 13% tổng diện tích đã giao.
Nói chung kết quả giao đất lâm nghiệp trên đã cho rừng có chủ thực sự, tạo ra
nhiều loại hình sở hữu rừng ( rừng nhà nước, rừng tập thể, rừng cộng đồng, và hộ gia
đình ) tạo điều kiện khai thác tiềm năng đất đai, lao động, nguồn vốn tại chổ. Cùng với
chính sách tích cực của nhà nước trong thời gian qua làm cho rừng có độ che phủ tăng
lên nhanh chóng từ năm 1992 đến năm 1999 độ che phủ của rừng tăng lên từ 28% lên
31%
Đã hình thành hàng ngàn trang trại nông lâm nghiệp mô hình kinh tế hộ gia
đình có hiệu quả kinh tế cao, đã hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy, rừng được
bảo vệ tốt hơn vì đã có người làm chủ thực sự. Trồng rừng được đảm bảo với tỉ lệ
thành rừng cao, tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nhân
dân, một bộ phận dân cư đã giàu lên từ nghề rừng, mở ra hướng sản xuất hàng hoá gắn
với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xoá đói, giảm nghèo, từng bước góp phần
thay đổi bộn mặt nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện giao đất lâm
nghiệp, bên cạnh những hiệu quả đạt được còn hạn chế trên một số mặt sau:
- Ở một số địa phương giao đất khi chưa có quy hoạch sử dụng đất, thực sử không
đúng quy trình giao đất lâm nghiệp, không giao đúng đối tượng.
- Ở một số nơi trong quá trình thực hiện giao đất còn nhầm lẫn giữa giao đất theo
nghị định 02/CP và khoán đất lâm nghiệp theo nghị định 01/CP
- Giao sai thẩm quyền, một số lâm trường đứng ra giao đất lâm nghiệp cho hộ gia
đình, giao cả vào rừng đặc dụng, rừng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu.
- Trong quá trình giao đất thiếu sự tham gia của người dân, không coi trọng việc bàn
giao ranh giới ngoài thuộc địa, dẫn đến tình trạng sau khi giao nhiều hộ gia đình, cá
nhân không xác định được ranh giới của mình ở ngoài thực địa.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
- Việc xác định giúp các hộ gia đình hướng sử dụng đất sau khi được giao còn hạn
chế, chung chung, thiếu cụ thể, dẫn đến tình trạng sau khi giao đất hộ gia đình không
xác định mục tiêu sản xuất cũng như xác định được cây trồng sao cho phù hợp với điều
kiện lập địa ở địa phương.
B¸o c¸o tèt nghiÖp GVHD: NguyÔn §×nh Quang
SVTH: D¬ng V¨n Hïng - Líp: C§ L©m nghiÖp – K50
PHẦN III