Lưu vực sông Nhuệ- Đáy trải dài từ18015'00'' đến 20010'30''vĩ độBắc; 103045'20'' đến 105015'20''kinh độ Đông. Sông Nhuệvà sông Đáy là hai con sông
rất quan trọng trong việc tưới tiêu và điều hoà nước cho một sốtỉnh phía Bắc. Lưu
vực của haicon sông này đi qua các tỉnh và thành phố: Hoà Bình, Hà Nội, HàNam,
Nam Định và Ninh Bình.
Trong những năm gần đây, tài nguyên nước trên sông Nhuệ- sông Đáythay
đổi rất rõ rệt cảvềchất và lượng nước, điều này ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh
tế, xã hội và môi trường sống trong khu vựcmàhai con sông này đi qua. Bên cạnh
đó, sông Nhuệvà sông Đáylại có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với các tỉnh
phía Bắc nằmtrong lưu vực, đặc biệt các tỉnh ởdưới hạlưu.
Mặt khác, dưới tác động của biến đổi khí hậu, đã được tính toán, trong
khoảng 50 nămqua, nhiệt độtrung bình năm đã tăng khoảng 0,5 - 0,7
o
C, mực nước
biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu tác động làm cho các thiên tai, đặc biệt
là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Biến đổi khí hậu có thểtác động đến nông
nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệthống kinh tế- xã hội trong
tương lai.
Việc tính toán được tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước là một
vấn đềcấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý tài nguyên nước. Do vậy, “Đánh giá tác
độngcủa biến đổi khí hậu đến biến động tài nguyên nước lưu vực sông Nhuệ-
Đáy thuộc thành phốHà Nội” là một đềtài có tính khoa học và thực tiễn nhằm
góp phần giải quyết bài toán trên đối với các nhà quản lý tài nguyên nước trên địa
bàn Thủ đô để đưa ra được những quyết định chiến lược phát triển đúng đắn.
Cấu trúc, nội dung của luận văn gồm 3chương, không kểmở đầu, kết luận,
tài liệu thamkhảo và phụlục.
Mở đầu (tính cấp thiết, mục tiêu, nghiên cứu,phương hướng giải quyết,.)
Chương 1. Tổng quan lưu vực nghiên cứu
Chương 2. Tổng quan vềcác nghiên cứu cóliên quan
Chương 3. Mô phỏng ảnh hưởng của biến đối khí hậu tới tài nguyên nước.
Kết luận và kiến nghị
63 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2340 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tác độngcủa biến đổi khí hậu đến biến động tài nguyên nước lưu vực sông Nhuệ- Đáy thuộc thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lêi c¶m ¬n
Sự dạy dỗ tận tình của các Thầy, Cô trong bộ môn Thuỷ văn
của Khoa Khí tượng - Thuỷ văn và Hải Dương học trong 2 năm qua
cùng các đồng nghiệp trong Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và
Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường và ở khoa Khí tượng
Thủy văn và Hải dương học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu
đó của các Thầy, Cô, các bạn đồng nghiệp và đặc biệt là PGS.TS
Nguyễn Thanh Sơn, người hướng dẫn khoa học đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lã Thanh Hà và toàn thể cán
bộ Trung tâm Nghiên cứu Thủy văn và Tài nguyên nước - Viện
Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường, những người đã tâm
huyết tạo mọi điều kiện để tác giả có thể hoàn thành luận văn một
cách tốt nhất.
Trong thời gian thực hiện luận văn, tác giả còn nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ trong các lĩnh vực khác nhau kể cả trong và
ngoài chuyên môn mà ở đây không thể kể ra hết được. Tác giả xin
chân thành bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đặc
biệt là các bạn học viên khóa 2008-2010 đã tận tình trao đổi, đóng
góp và động viên tôi rất nhiều để giúp đỡ tôi hoàn thành được luận
văn này.
Hà Nội, tháng 12/2010
Tác giả
Văn Thị Hằng
MỞ ĐẦU
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy trải dài từ 18015'00'' đến 20010'30'' vĩ độ Bắc;
103045'20'' đến 105015'20'' kinh độ Đông. Sông Nhuệ và sông Đáy là hai con sông
rất quan trọng trong việc tưới tiêu và điều hoà nước cho một số tỉnh phía Bắc. Lưu
vực của hai con sông này đi qua các tỉnh và thành phố: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam,
Nam Định và Ninh Bình.
Trong những năm gần đây, tài nguyên nước trên sông Nhuệ - sông Đáy thay
đổi rất rõ rệt cả về chất và lượng nước, điều này ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh
tế, xã hội và môi trường sống trong khu vực mà hai con sông này đi qua. Bên cạnh
đó, sông Nhuệ và sông Đáy lại có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với các tỉnh
phía Bắc nằm trong lưu vực, đặc biệt các tỉnh ở dưới hạ lưu.
Mặt khác, dưới tác động của biến đổi khí hậu, đã được tính toán, trong
khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,5 - 0,7oC, mực nước
biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu tác động làm cho các thiên tai, đặc biệt
là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến nông
nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong
tương lai.
Việc tính toán được tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước là một
vấn đề cấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý tài nguyên nước. Do vậy, “Đánh giá tác
động của biến đổi khí hậu đến biến động tài nguyên nước lưu vực sông Nhuệ -
Đáy thuộc thành phố Hà Nội” là một đề tài có tính khoa học và thực tiễn nhằm
góp phần giải quyết bài toán trên đối với các nhà quản lý tài nguyên nước trên địa
bàn Thủ đô để đưa ra được những quyết định chiến lược phát triển đúng đắn.
Cấu trúc, nội dung của luận văn gồm 3 chương, không kể mở đầu, kết luận,
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Mở đầu (tính cấp thiết, mục tiêu, nghiên cứu, phương hướng giải quyết,...)
Chương 1. Tổng quan lưu vực nghiên cứu
Chương 2. Tổng quan về các nghiên cứu có liên quan
Chương 3. Mô phỏng ảnh hưởng của biến đối khí hậu tới tài nguyên nước.
Kết luận và kiến nghị
1
CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG NHUỆ - ĐÁY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Lưu vực sông Đáy- Nhuệ nằm ở hữu ngạn sông Hồng trong phạm vi từ
200 đến 21020' vĩ độ Bắc và từ 1050 đến 106030' kinh độ Đông, với tổng diện tích tự
nhiên là 7665 km2, bao gồm một phần Thủ đô Hà Nội, Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam,
Nam Định, Ninh Bình. Giới hạn của lưu vực như sau:
- Phía Bắc và Đông Bắc được bao bởi đê sông Hồng từ ngã ba Trung
Hà tới cửa Ba Lạt với tổng chiều dài khoảng 242 km.
- Phía Tây Bắc giáp sông Đà từ Ngòi Lát tới Trung Hà với chiều dài
khoảng 33 km.
- Phía Tây và Tây Nam là đường phân lưu giữa lưu vực sông Hồng và
lưu vực sông Mã bởi dãy núi Ba Vì, Cúc Phương – Tam Điệp, kết thúc tại núi Mai
An Tiêm (nơi có sông Tống gặp sông Cầu Hội) và tiếp theo là sông Càn dài 10 km
rồi đổ ra biển tại cửa Càn.
- Phía Đông và Đông Nam là biển Đông có chiều dài khoảng 95 km từ
cửa Ba Lạt tới cửa Càn.
Sông bắt nguồn từ cống Liên Mạc (21005’27” vĩ độ Bắc, 105046’12” kinh
độ Đông) lấy nước từ sông Hồng trong địa phận huyện Từ Liêm (thành phố Hà Nội)
và điểm kết thúc là cống Phủ Lý khi hợp lưu với sông Đáy gần thành phố Phủ Lý
(20032’42” vĩ độ Bắc, 105054’32” kinh độ Đông).
- Lưu vực sông Nhuệ dài 74 km tính từ nguồn là cống Liên Mạc về đến cống
Phủ Lý (Hà Nam). Trên địa phận Hà Nội sông có chiều dài 61.5km. Độ rộng trung
bình của sông là 30-40m. Sông chảy ngoằn ngoèo theo hướng Bắc-Nam ở phần
thượng nguồn và theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ở trung lưu và hạ lưu.
- Sông Đáy là một chi lưu lớn nằm bên hữu ngạn của sông Hồng, diện
tích lưu vực khoảng 6595km2, chiều dài sông chính khoảng 247km (tính từ cửa
Hát Môn đến cửa Đáy trước khi đổ ra biển Đông). Sông Đáy chảy qua địa phận
các tỉnh Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Tọa độ địa lý: 20033’ đến
21019’ vĩ độ Bắc và 105017’ đến 105050’ kinh độ Đông. [5,7]
2
1.2 ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO
Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, khu vực nghiên cứu nằm trải dài theo
phương vĩ tuyến, chịu ảnh hưởng của nhiều đới cấu trúc địa chất khác nhau, khiến
cho địa hình có sự phân hoá tương phản thể hiện rõ nét theo hướng Tây-Đông và
hướng Bắc-Nam. Xét về mặt cấu trúc ngang đi từ Tây sang Đông có thể chia địa
hình khu vực nghiên cứu thành vùng chính như sau:
H×nh 1.1 B¶n ®å l−u vùc hÖ thèng s«ng §¸y- NhuÖ
3
a) Vùng đồi núi
Địa hình núi phân bố ở phía Tây và Tây Nam và chiếm khoảng 30% diện
tích, có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam ra biển và thấp dần từ Tây
sang Đông. Phần lớn là các dãy núi thấp có độ cao trung bình 400 - 600m được cấu
tạo bởi các đá trầm tích lục nguyên, cacbonat; chỉ một vài khối núi có độ cao trên
1.000m được cấu tạo bởi đá trầm tích phun trào như khối núi Ba Vì có đỉnh cao
1.296m, khối núi Viên Nam có đỉnh cao 1.031m và cấu tạo bởi đá xâm nhập granit
như khối núi Đồi Thơi (Kim Bôi - Hoà Bình) có đỉnh cao 1.198m. Địa hình núi
trong khu vực cũng có sự phân dị và mang những đặc trưng hình thái khác nhau.
Địa hình đồi được tách ra với địa hình núi và đồng bằng bởi độ chênh cao
<100m, độ phân cắt sâu từ 15 - 100m. Trong phạm vi lưu vực sông Đáy-Nhuệ địa
hình đồi chỉ chiếm khoảng 10% diện tích có độ cao phần lớn dưới 200m, phân bố
chuyển tiếp từ vùng núi xuồng đồng bằng. Theo đặc điểm hình thái, có thể chia
thành 2 khu vực: vùng đồi phía Bắc và vùng đồi phía Nam.
b) Vùng đồng bằng
Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 60% lãnh thổ, địa hình khá bằng
phẳng có độ cao < 20 m và thấp dần từ Tây sang Đông, từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Bề mặt đồng bằng lại bị chia cắt bởi hệ thống sông và kênh mương chằng
chịt. Có thể chia đồng bằng thành 4 khu vực có đặc điểm khác nhau: vùng đồng
bằng phía Bắc, vùng đồng bằng trung tâm, vùng đồng bằng phía Nam, vùng đồng
bằng thung lũng. Bề mặt lưu vực có hướng dốc thay đổi, đầu nguồn hệ thống sông
hướng Bắc- Nam; trung và hạ nguồn: hướng Tây Bắc- Đông Nam. Thượng lưu hệ
thống sông uốn khúc, quanh co, hẹp và dốc, nhiều thác ghềnh, nước chảy xiết, là
nguy cơ tạo nên các hiện tượng xói lở, lũ quét...Trung lưu và hạ lưu lòng sông được
mở rộng, dòng sông chảy chậm, khả năng thoát nước kém dẫn đến tình trạng ngập
lũ mỗi khi xuất hiện mưa lớn.[5,7]
1.3. ĐỊA CHẤT THỔ NHƯỠNG
a) Địa chất
Vùng đồi núi: Các dãy núi có độ cao từ 400 – 600 m được cấu tạo bởi đá trầm
tích lục nguyên, cacbonat. Một vài khối núi cao trên 1000m được cấu tạo bởi đá
trầm tích phun trào như khối núi Ba Vì, khối núi Viên Nam. Khu vực huyện Mỹ
Đức là vùng núi đá vôi có nhiều hang động và hiện tượng karst mạnh.
Vùng đồng bằng có cấu tạo chủ yếu là đất phù sa, địa chất của vùng đồng
4
bằng chủ yếu là nền mềm, các lớp đất thường gặp là đất thịt các loại, đất sét và cát
pha, xen kẽ có các lớp cát mịn, cát chảy hoặc bùn. Các lỗ khoan thăm dò địa chất và
các giếng khoan khai thác nước ngầm cho thấy cấu tạo địa chất từ trên xuống dưới
gồm các lớp sau: sét pha và đất sét lẫn cát dày 2 ÷ 16 m; bùn hữu cơ – bùn cát dày
1,3 ÷ 6 m (10m); tầng cát đá cuội, đá dăm hạt to dày 50 ÷ 90m.
b) Thổ nhưỡng
Do nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên đất trong khu vực
chủ yếu là đất phù sa của hệ thống sông Hồng và sông đáy bồi đắp nên. Mặc dù
được bao bọc bởi các đê sông Hồng, sông Đáy song hầu như hàng năm phần lớn
diện tích đất canh tác ít nhiều đều được tưới bằng nước phù sa lấy từ các cống tự
chảy hoặc các trạm bơm. Quá trình bồi tụ, hình thành và phát triển của các nhóm
đất ở từng khu vực khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về loại hình đất trong hệ thống.
Song nhìn chung chúng đều là loại đất ít chua và chua có hàm lượng mùn và các
chất dinh dưỡng ở mức độ trung bình đến nghèo. Những khu vực cao ven sông
Hồng, sông Đáy đất có thành phần cơ giới nhẹ chủ yếu là đất cát hoặc pha cát khá
chua và nghèo chất dinh dưỡng. Các vũng trũng ven sông Nhuệ, Duy Tiên, Châu
Giang đất có thành phần cơ giới nặng hơn chủ yếu là loại đất thịt nặng và sét nhẹ ít
chua và giàu các chất dinh dưỡng hơn. Khu vực nghiên cứu có 5 loại đất: đất phù
sa, đất xám có tầng loang, đất phù sa glây, đất xám feralit và đất glây chua.
Đất phù sa chiếm diện tích lớn nhất của toàn bộ lưu vực, tập trung chủ yếu ở
phía Đông, phía Bắc và Đông Bắc. Đất phù sa thích hợp cho trồng cây nông nghiệp
như lúa nước, hoa màu. Phía Tây là nơi tập trung nhiều đất xám feralit thích hợp
cho trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày, cây ăn quả.[8]
1.4. THẢM THỰC VẬT
Hiện nay rừng đầu nguồn đang bị khai thác, tàn phá nghiêm trọng làm giảm
diện tích rừng tự nhiên và đa dạng sinh học bị giảm sút [8].
- Do lưu vực sông Nhuệ - Đáy có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau như
rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt, các vùng đất ngập
nước.
- Phần lớn lưu vực là những vùng đồng bằng đã bị khai phá từ lâu đời. Nhưng
với một phần là diện tích rừng núi thuộc các khu rừng đặc rụng như Cúc Phương,
Ba Vì, khu bảo vệ cảnh quan Hương Sơn, Hoa Lư, Vân Long, ngập nước mặn với
thế giới sinh vật trong lưu vực vô cùng phong phú, đa dạng. Tính đến năm 2002
5
toàn lưu vực có khoảng 16770ha rừng, trong đó diện tích rừng tự nhiên 3922ha,
diện tích rừng trồng 12484ha. Hệ sinh thái tự nhiên trong lưu vực sông Nhuệ - sông
Đáy gồm:
• Hệ sinh thái rừng kín cây lá rộng
• Hệ sinh thái trảng cây bụi, cỏ trên núi đất
• Hệ sinh thái rừng kín thường xanh cây lá rộng nhiệt đới trên núi đá vôi
• Hệ sinh thái trảng cây bụi, trảng cỏ trên núi đá vôi
1.5 KHÍ HẬU
Khu vực nghiên cứu có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa - kiểu khí hậu chung
của vùng đồng bằng Bắc Bộ - với mỗi năm có một mùa đông lạnh và khô; một mùa
hè nóng, ẩm và mưa nhiều. Giữa hai mùa này có sự chuyển giao về khí hậu, điển
hình là tháng IV và tháng X nên có thể coi khí hậu ở đây có 4 mùa.
Bức xạ mặt trời là nguồn nhiệt chính tạo nên nhiệt độ không khí và nhiệt độ
đất. Phân bố bức xạ trong năm liên quan đến tiến trình năm của độ cao mặt trời và
thời gian chiếu sáng trong ngày. Tổng lượng bức xạ hàng năm ở khu vực nghiên
cứu cỡ 122,8 kcal/cm2/năm. Bức xạ cực đại thường xảy ra vào tháng VII (15,2
kcal/cm2/tháng) và cực tiểu thường xảy ra vào tháng II (5,2 kcal/cm2/tháng). Số giờ
nắng hàng năm đạt dao động trong khoảng từ 1300 đến 1700 giờ.
Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối tới 42,8oC, thấp nhất tuyệt đối chỉ
2,7oC, trung bình năm dao động trong khoảng 23 ÷ 24oC. Trong những năm gần
đây, do ảnh hưởng chung của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ không khí có xu
hướng tăng cao nên nền nhiệt độ không khí trung bình năm của những năm gần đây
cũng tăng lên (như năm 1998 là 25,1oC).
Độ ẩm không khí trong khu vực nghiên cứu khá lớn, trung bình năm dao
động trong khoảng 84 ÷ 86%. Mùa có mưa phùn (tháng III và IV hàng năm) là thời
kỳ ẩm ướt nhất còn nửa đầu mùa đông (tháng XII và tháng I hàng năm), do ảnh
hưởng gió mùa Đông Bắc khô hanh nên là thời kỳ khô nhất của năm.
Diễn biến của lượng bốc hơi phụ thuộc vào diễn biến của nhiệt độ và độ ẩm
không khí. Lượng bốc hơi tháng bình quân nhiều năm dao động trong khoảng 60 ÷
100 mm. Tháng có lượng bốc hơi lớn nhất trong năm là tháng VII, tới 98 mm. Thời
kỳ khô hanh đầu mùa đông cũng là thời kỳ có lượng bốc hơi lớn, trung bình dao
động trong khoảng 90 ÷ 95 mm.
6
Tốc độ gió ở khu vực không lớn lắm.Tốc độ gió trung bình của tháng lớn
nhất (tháng IV) cũng chỉ khoảng 2,5m/s còn của tháng nhỏ nhất (tháng I) rất thấp,
chỉ 1,5m/s. Tuy nhiên, tốc độ gió mạnh nhất có thể đạt tới trên 40 m/s. Bảng 1.2 thể
hiện tốc độ gió mạnh đo được tại trạm Láng ứng với các xác suất xuất hiện khác
nhau. Hướng gió luôn thay đổi theo thời gian trong năm nhưng chủ đạo là các
hướng Đông Nam và Đông Bắc.
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng mưa trung bình của đồng bằng Bắc Bộ.
Lượng mưa năm bình quân nhiều năm ở đây đạt khoảng 1650 mm. Mỗi năm trung
bình có khoảng trên dưới 150 ngày có mưa. Lượng mưa phân phối rất không đều
theo thời gian trong năm. Một năm hình thành hai mùa mưa và khô rất rõ rệt.
Mùa mưa thường kéo dài 5 tháng, từ tháng V đến tháng X với tổng lượng
mưa chiếm tới xấp xỉ 83% tổng lượng mưa năm. Tháng mưa nhiều nhất thường là
VII hoặc VIII với lượng mưa chiếm tới trên 18% tổng lượng mưa năm. Ba tháng
liên tục có mưa lớn nhất trong năm là VII, VIII, IX. Tổng lượng mưa của ba tháng
này chiếm tới trên 49% tổng lượng mưa năm.
Mùa khô thường kéo dài 7 tháng, từ tháng XI đến tháng IV năm sau với tổng
lượng mưa chỉ chiếm khoảng 17% lượng mưa của cả năm. Tháng ít mưa nhất
thường là tháng XII hoặc tháng I với lượng mưa chỉ chiếm trên dưới 1% tổng lượng
mưa năm. Ba tháng liên tục mưa ít nhất là các tháng XII, I và II. Tổng lượng mưa
của ba tháng này chỉ chiếm khoảng 4,2% tổng lượng mưa năm [8].
1.6 THỦY VĂN
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy gồm 2 nhánh chính là sông Đáy và Nhuệ, ngoài ra
có rất nhiều các chi lưu như: sông Tích, sông Bùi, sông Thanh Hà.
Tại điểm giao nhau giữa sông Đáy và sông Hồng thuộc địa phận thành phố Hà
Nội có 2 công trình kiểm soát lũ trên sông Đáy, điều tiết dòng chảy từ sông Hồng vào.
Khi đập Đáy đóng, phần thượng lưu là một sông chết do không có nước nuôi lòng.
Sông Tích có chiều dài 91 km, bắt nguồn từ vùng đồi núi Ba Vì, đổ vào sông
Đáy tại Ba Thá. Dòng chảy năm của sông Tích và sông Đáy đo tại trạm Ba Thá là
1,35 tỉ m3, chiếm 4,7% tổng lượng dòng chảy năm tại cửa ra lưu vực.
Sông Thanh Hà bắt nguồn từ dãy núi đá vôi gần Kim Bôi – Hòa Bình, chảy
vào vùng đồng bằng từ ngã ba Đông Chiêm ra đến Đục Khê, được ngăn cách giữa
cánh đồng và núi bởi kênh Mỹ Hà, đưa nước chảy thẳng vào sông Đáy. Diện tích
lưu vực là 271 km2, sông dài 40 km, chiều rộng trung bình lưu vực 9 km [5].
7
Chế độ thủy văn lưu vực sông Đáy không những chịu ảnh hưởng của các yếu
tố mặt đệm trên bề mặt lưu vực, các yếu tố khí hậu mà còn phụ thuộc vào chế độ
dòng chảy của nước sông Hồng và các sông khác. Vì thế mà chế độ thủy văn ở đây
rất phức tạp và có sự khác nhau nhất định giữa các đoạn sông. Dòng chảy trên lưu
vực sông phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo không gian, dòng
chảy lớn nhất là ở núi Ba Vì, phần hữu ngạn lưu vực có dòng chảy lớn hơn phần tả
ngạn. Sự phân bố theo thời gian thể hiện rõ nét thông qua phân phối dòng chảy
trong năm. Phân phối dòng chảy năm phụ thuộc vào sự phân phối theo mùa của
lượng mưa năm nên dòng chảy trong năm cũng phân phối không đều và thể hiện hai
mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng V đến tháng X chiếm 80-
85% lượng mưa cả năm . Mùa khô từ tháng XI đến tháng IV năm sau.
Lượng nước mùa lũ ở hầu hết các sông chiếm từ 70- 80% lượng nước năm.
Trong mùa cạn, mực nước và lưu lượng nước nhỏ. Lượng dòng chảy trong 7 tháng
mùa cạn chỉ chiếm khoảng 20- 25% lượng dòng chảy cả năm. Ngoài các nhánh
sông lớn chi phối chế độ thủy văn trên hệ thống, sông Đáy còn nhận nước từ các
sông tiêu, sông tưới qua các cống La Khê, Ngoại Độ…Các sông này thường phải
đóng lại khi có phân lũ trong thời gian dài, ngắn tùy thuộc vào thời gian lũ. Sông
Đáy có vị trí rất quan trọng, nó vừa là đường thoát nước chính của sông Hồng, vừa
là đường tiêu lũ của bản thân lưu vực sông Đáy [7]ư.
1.7. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG NHUỆ ĐÁY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trên địa bàn thành phố Hà Nội lưu vực sông Đáy trên địa bàn thành phố Hà
Nội có diện tích là 1900km2, lưu vực sông Nhuệ có diện tích khoảng 603km2. Giới
hạn của lưu vực sông Nhuệ-Đáy trên địa bàn Hà Nội như sau: phía Bắc và phía
Đông được bao bởi đê sông Hồng kể từ ngã ba Trung Hà tới cửa Ba Lạt với chiều
dài khoảng 242 km, phía Tây Bắc giáp sông Đà từ Ngòi Lát tới Trung Hà với chiều
dài khoảng 33 km, phía Tây giáp Hòa Bình, phía Nam giáp Hà Nam.
Xét về mặt cấu trúc ngang đi từ Tây sang Đông có thể chia địa hình khu vực
nghiên cứu thành vùng chính như sau:
a) Vùng đồi núi. Địa hình núi phân bố ở phía Tây và Tây Nam, chiếm
khoảng 30% diện tích, có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam ra biển và
thấp dần từ Tây sang Đông. Địa hình đồi núi được tách ra với địa hình núi và đồng
bằng độ chênh cao <100m, độ phân cắt sâu từ 15-100m. Trong phạm vi lưu vực
sông Nhuệ-Đáy, địa hình đồi chiếm khoảng 10% diện tích có độ cao dưới 200m.
8
b) Vùng đồng bằng. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 60% lãnh
thổ, địa hình khá bằng phẳng có độ cao < 20m và thấp dần từ Tây sang Đông, từ
Tây Bắc xuống Đông Nam. Hướng chảy của sông Nhuệ - Đáy luôn thay đổi:
thượng nguồn hướng Bắc-Nam; trung lưu và hạ lưu hướng Tây Bắc-Đông Nam.
Thượng lưu sông Nhuệ - Đáy uốn khúc quanh co, hẹp và dốc, nhiều thác ghềnh,
nước chảy xiết là nguy cơ tạo ra các hiện tượng xói lở, lũ quét...
Lưu vực sông Nhuệ-Đáy được cấu thành bởi các đá biến chất, trầm tích,
trầm tích phun trào, các đá xâm nhập và trầm tích bở rời tuổi từ Protezozoi đến
hiện đại. Dựa vào thành phần thạch học, các thông số địa chất thuỷ văn và đặc
điểm thuỷ động lực,... có thể phân chia vùng nghiên cứu thành 7 tầng chứa nước.
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy gồm có các nhóm đất chính: Nhóm đất mặn; phù sa;
xám; vàng đỏ; đất xói mòn trơ sỏi đá...
Do lưu vực sông Đáy-Nhuệ có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau như
rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt, các vùng đất
ngập nước. Hiện nay rừng đầu nguồn lưu vực sông đang bị tàn phá nghiêm trọng.
Diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp đáng kể. Theo số liệu khảo sát gần đây nhất, diện
tích rừng trên lưu vực thuộc địa bàn Hà Nội chiếm 160.84km2 (chiếm 6.36% diện tích
lưu vực trên địa bàn Hà Nội), trong đó có 55.2km2 là rừng dự trữ; 105.64km2 là rừng
dày-nghèo [11].
Khí hậu lưu vực sông Nhuệ-Đáy khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ với
đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh,
mưa ít. Lượng mưa phân bố không đồng đều, trung bình hàng năm 1.800mm. Hữu
ngạn của lưu vực mưa khá lớn (X > 1800mm), nhất là vùng đồi núi phía Tây (X
>2000mm). Trung tâm mưa lớn nhất ở thượng nguồn sông Tích thuộc núi Ba Vì
(X=2200-4000mm). Phần tả ngạn lưu vực lượng mưa tương đối nhỏ (X=1500-
1800mm), nhỏ nhất ở thượng nguồn sông Đáy, sông Nhuệ (X=1500mm), và lại
tăng dần ra phía biển (1800-2000mm).
Khu vực ô trũng đầm lầy về mùa mưa, thường xuyên bị úng ngập, đặc biệt
những khu vực nằm trong vùng phân lũ của sông Đáy, bởi vậy mỗi khi có báo động
III hoặc phân lũ thì bị ngập nước ở độ sâu từ 1- 4m.
Trên toàn lưu vực, mùa mưa bắt đầu từ tháng IV-V và kết thúc vào t