Ảnh hưởng của lỗ rỗng vi mô (porosities) sinh ra trong quá trình
chế tạo FGM tới các đặc trưng dao động của dầm FGM được một số
tác giả nghiên cứu trong thời gian gần đây [16, 17, 18, 19]. Do dầm
FGM thường được sử dụng trong môi trường có nhiệt độ cao, nghiên
cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ tới dao động tự do cũng được một số
tác giả nghiên cứu [20, 21]. Với bài toán dao động cưỡng bức của
dầm FGM chỉu tải trọng di động, theo hiểu biết của tác giả, mới chỉ
có nghiên cứu Wang và Wu [22], trong đáp ứng động lực học của
dầm dầm FGM nằm trong môi trường nhiệt độ tăng đều, chịu tải
trọng di động điều hòa được tính toán bằng phương pháp Lagrange.
Cần nhấn mạnh rằng, trong [22] các tác giả chỉ xét dầm FGM hoàn
hảo (không có lỗ rỗng vi mô), có cơ tính biến đổi dọc và trường nhiệt
độ được giả định tăng đều. Về mặt toán học, trường nhiệt độ tăng
đều là trường hợp riêng của trường nhiệt độ phi tuyến và khá đơn
giản về mặt tính toán. Nghiên cứu dao động của dầm FGM có lỗ
rỗng vi mô, chịu tải trọng di động trong môi trường nhiệt độ cao, vì
thế có tính khoa học và có tính thực tế cao
28 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 762 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dao động của dầm fgm có lỗ rỗng vi mô trong môi trường nhiệt độ chịu tải trọng di động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
BÙI VĂN TUYỂN
DAO ĐỘNG CỦA DẦM FGM CÓ LỖ RỖNG VI MÔ TRONG
MÔI TRƯỜNG NHIỆT ĐỘ CHỊU TẢI TRỌNG DI ĐỘNG
Chuyên ngành: Cơ kỹ thuật
Mã số : 9520101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ
NGÀNH KỸ THUẬT CƠ KHÍ VÀ CƠ KỸ THUẬT
Hà nội – 2018
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ -
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS. Nguyễn Đình Kiên
Người hướng dẫn khoa học 2: TS. Trần Thanh Hải
Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Xuân Lượng
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Minh Tú
Phản biện 3: PGS.TS. Phan Bùi Khôi
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp
Học viện, họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam vào hồi giờ ..’, ngày tháng
năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự của đề tài luận án
Ảnh hưởng của lỗ rỗng vi mô (porosities) sinh ra trong quá trình
chế tạo FGM tới các đặc trưng dao động của dầm FGM được một số
tác giả nghiên cứu trong thời gian gần đây [16, 17, 18, 19]. Do dầm
FGM thường được sử dụng trong môi trường có nhiệt độ cao, nghiên
cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ tới dao động tự do cũng được một số
tác giả nghiên cứu [20, 21]. Với bài toán dao động cưỡng bức của
dầm FGM chỉu tải trọng di động, theo hiểu biết của tác giả, mới chỉ
có nghiên cứu Wang và Wu [22], trong đáp ứng động lực học của
dầm dầm FGM nằm trong môi trường nhiệt độ tăng đều, chịu tải
trọng di động điều hòa được tính toán bằng phương pháp Lagrange.
Cần nhấn mạnh rằng, trong [22] các tác giả chỉ xét dầm FGM hoàn
hảo (không có lỗ rỗng vi mô), có cơ tính biến đổi dọc và trường nhiệt
độ được giả định tăng đều. Về mặt toán học, trường nhiệt độ tăng
đều là trường hợp riêng của trường nhiệt độ phi tuyến và khá đơn
giản về mặt tính toán. Nghiên cứu dao động của dầm FGM có lỗ
rỗng vi mô, chịu tải trọng di động trong môi trường nhiệt độ cao, vì
thế có tính khoa học và có tính thực tế cao.
2. Mục tiêu của luận án
Luận án nhằm phát triển mô hình phần tử hữu hạn dùng trong
nghiên cứu dao động của dầm FGM có lỗ rỗng vi mô trong môi
trường nhiệt độ chịu tác dụng của tải trọng di động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu dầm FGM hai pha là gốm và kim
loại với cơ tính biến đổi theo chiều cao dầm. Tải trọng tác động lên
dầm là các lực tập trung hoặc lực điều hòa di động trên dầm với vận
tốc không thay đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp giải tích và phương pháp phần tử
hữu hạn, trong đó phương pháp giải tích dùng để xây dựng các
phương trình vi phân chuyển động của dầm, phương pháp phần tử
hữu hạn được sử dụng để giải phương trình chuyển động và tính toán
các đặc trưng động lực học của dầm.
2
5. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, bốn chương, phần kết luận và danh
mục các công trình của tác giả liên quan tới nội dung luận án. Các
các tài liệu tham khảo được liệt kê ở cuối luận án.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Dầm FGM
FGM có thể xem như là vật liệu composite mới, được tạo từ hai
hay một vài vật liệu thành phần với tỷ lệ thể tích thay đổi liên tục
theo một hoặc vài hướng không gian. So với vật liệu composite
truyền thống, FGM có nhiều ưu điểm như độ bền phá hủy cao hơn,
hệ số cường độ tập trung ứng suất giảm, cải thiện được sự phân bố
của ứng suất dư, không làm mất tính liên tục của ứng suất, vì thế
tránh được các vấn đề liên quan tới hiện tượng tách lớp thường gặp
trong các vật liệu composite truyền thống. Với các ưu điểm nêu trên,
FGM có tiềm năng ứng dụng trong các ngành công nghệ cao như
công nghệ hàng không, vũ trụ, lĩnh vực quân sự, công nghệ hạt nhân,
công nghệ năng lượng và cơ khí chính xác [24].
Dầm FGM, đối tượng quan tâm nghiên cứu trong Luận án này,
thường được tạo từ hai pha vật liệu thành phần là pha gốm và pha
kim loại. Tỷ lệ thể tích của các pha thành phần thay đổi theo hàm số
mũ của một tọa độ không gian, chẳng hạn theo chiều cao của dầm
theo quy luật [3]
,
1
2
,
2
1
2
n
c c m
h zzV V V
h
h
(1.1)
trong đó Vc, Vm tương ứng là tỉ lệ thể tích của pha gốm và pha kim
loại, z là tọa độ theo chiều cao dầm, chỉ số mũ n là tham số vật liệu
xác định tỷ lệ và sự phân bố thể tích của vật liệu thành phần. Ngoài
quy luật (1.1), một số tác giả cũng nghiên cứu dầm có cơ tính biến
đổi theo trục dầm và dầm có cơ tính biến đổi theo cả hai phương.
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Ứng xử cơ học của dầm FGM
Phương pháp giải tích truyền thống, đặc biệt phương pháp
Galerkin, được một số tác giả sử dụng trong nghiên cứu ứng xử cơ
học của dầm FGM [35-41]. Phương pháp phần tử hữu hạn (FEM)
3
cũng được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu dầm FGM. Một số
phần tử hữu hạn đã được đề nghị để phân tích dầm FGM trong thời
gian gần đây [59-64], trong đó phải kể tới các công trình của
Alshorbagy và cộng sự [25] Mohanty và đồng nghiệp [66, 67], Gan
và Nguyễn Đình Kiên [70, 71, 72]. Eltaher và cộng sự [73, 74] xét
tới vị trí thực của trục trung hòa trong xây dựng công thức phần tử
hữu hạn để nghiên cứu dao động tự do của dầm có kích thước
macro/nano làm từ vật liệu FGM. Jin and Wang [76] sử dụng
phương pháp phần tử cầu phương để xây dựng ma trận độ cứng và
ma trận khối lượng cho nghiên cứu dao động tự do của dầm FGM.
Frikha và cùng đồng nghiệp [77] phát triển phần tử dầm hỗn hợp dựa
trên lý thuyết biến dạng trượt bậc cao dùng trong phân tích uốn.
1.2.2. Dầm FGM với lỗ rỗng vi mô
Sự xuất hiện của lỗ rỗng vi mô làm giảm độ cứng của vật liệu,
dẫn tới khả năng chịu tải thấp hơn của các phần tử kết cấu FGM.
Wattanasakulpong và Ungbhakorn [18], Wattanasakulpong và
Chaikittiratana [19] đề nghị mô hình đơn giản, trong đó thể tích của
lỗ rỗng vi mô được chia đều cho cả pha gốm và pha kim loại để
nghiên cứu ảnh hưởng của lỗ rỗng tới dao động tự do của dầm FGM.
Mô hình lỗ rỗng nói trên cũng được Ebrahimi và Zia [79] sử dụng
trong phân tích dao động tự do phi tuyến của dầm Timoshenko làm
từ FGM. Chen và cộng sự [16] đưa ra khái niệm hệ số lỗ rỗng
(porosity coefficient) trong nghiên cứu ứng xử uốn và mất ổn định
của dầm FGM. Mô hình trong [16] được các tác giả mở rộng cho bài
toán dao động phi tuyến của dầm sandwich với lõi là FGM có lỗ
rỗng vi mô [80], dao động tự do và cưỡng bức của dầm Timoshenko
làm từ FGM [81]. Shafiei và Kazemi [82] mở rộng mô hình lỗ rỗng
trong [18, 19] sang trường hợp lỗ rỗng phân bố không đều trong mặt
phẳng thiết diện ngang để nghiên cứu bài toán mất ổn định của dầm
nano/micro làm từ FGM. Mô hình lỗ rỗng phân bố không đều cũng
được sử dụng trong nghiên cứu dao động của dầm 2D- FGM [83].
1.2.3. Dầm FGM trong môi trường nhiệt độ
Chakraborty và cộng sự [84] xây dựng phần tử dầm Timoshenko
để nghiên cứu truyền sóng trong dầm sandwich có lõi FGM với sự
tăng đều của nhiệt độ môi trường. Bhangale và Ganesan [85] dùng
FEM để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ tới tới tần số dao động
4
riêng và hệ số hao tán của dầm sandwich FGM có lõi là vật liệu đàn
nhớt. Ching và Yen [86] đư ra lời giải số cho bài toán biến dạng cơ-
nhiệt của dầm FGM. Phương pháp cầu phương vi phân (DQM) được
Xiang và Yang [87] sử dụng trong nghiên cứu dao động của dầm
Timoshenko dự ứng lực do nhiệt độ, làm từ vật liệu FGM phân lớp
có độ dày thay đổi. Pradhan và Murmu [88] nghiên cứu dao động tự
do của dầm sandwich FGM nằm trên nền đàn hồi. DQM được
Malekzadeh [89], Malekzadeh và cộng sự [90] sử dụng trong nghiên
cứu dao động tự do của vòm và dầm cong làm từ FGM trong môi
trường nhiệt độ cao. Esfahani và đồng nghiệp [92] khảo sát ảnh
hưởng của nền đàn hồi và sự tăng nhiệt độ môi trường tới sự mất ổn
định phi tuyến của dầm Timoshenko làm từ FGM bằng DQM tổng
quát. Mahi cùng cộng sự [30] xây dựng phương pháp giải tích để
đánh giá ảnh hưởng của sự tăng nhiệt độ tới tần số dao động riêng
của dầm FGM. Wattanasakulpong và đồng nghiệp [21] xây dựng các
phương trình cơ bản để nghiên cứu bài toán mất ổn định nhiệt và dao
động tự do của dầm FGM. Ma và Lee [95] đưa ra nghiệm giải tích
cho bài toán ứng xử phi tuyến của dầm FGM chịu tải trọng nhiệt.
Phương pháp giải tích cũng được Eroglu sử dụng trong nghiên cứu
bài toán dao động tự do của dầm FGM trong môi trường nhiệt độ
[96]. Trinh và cộng sự [98] trình bày phương pháp giải tích để
nghiên cứu dao động và mất ổn định của dầm FGM chịu tải trọng cơ-
nhiệt. Với sự trợ giúp của phương pháp Runge-Kutta, Kiani và đồng
nghiệp [99] đã khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường tới đáp
ứng va đập với vận tốc thấp của dầm FGM. Ghiasian và cộng sự
[100] nghiên cứu bài toán mất ổn định tĩnh và động của dầm Euler-
Bernoulli làm từ FGM chịu tải trọng nhiệt tăng đều. Ebrahimi và
cộng sự [17] thiết lập phương trình chuyển động để nghiên cứu dao
động tự do của dầm Euler-Bernoulli làm từ FGM có lỗ rỗng vi mô,
nằm trong môi trường nhiệt độ cao.
1.2.4. Dầm FGM chịu tải trọng di động
Phương pháp nhân tử Lagrange được Şimşek và cộng sự sử dụng
trong nghiên cứu dao động của dầm FGM chịu các lực di động khác
nhau [4, 5, 6, 8, 10, 11]. Yang và cộng sự [104] nghiên cứu dao động
của dầm có vết nứt với cơ tính biến đổi theo số mũ Euler, chịu kích
động bởi lực di động. Phương pháp Ritz và DQM được Khalili và
đồng nghiệp [105] dung trong nghiên cứu dao động của dầm FGM
5
chịu kích động bởi khối lượng di động. Rajabi và cộng sự [7] sử
dụng phương pháp Petrov–Galerkin để chuyển hệ phương trình vi
phân bậc bốn của bài toán dầm FGM chịu hệ khối lượng-lò xo di
động về hệ phương trình vi phân bậc hai và giải hệ phương trình
bằng phương pháp số Runge-Kutta. Wang và Wu [22] sử dụng
phương pháp Lagrange trong nghiên cứu ảnh hưởng của sự tăng
nhiệt độ đồng nhất tới ứng xử động lực học của dầm Timoshenko
làm từ FGM với cơ tính biết đổi dọc theo chiều dài dầm chịu lực điều
hòa di động. Gan và Nguyễn Đình Kiên [106] xây dựng phần tử dầm
Timoshenko có tính tới ảnh hưởng vị trí của mặt trung hòa và ứng
dụng trong phân tích động lực học của dầm FGM đa nhịp. FEM cũng
được Gan và đồng nghiệp sử dụng trong nghiên cứu dầm FGM có cơ
tính biến đổi dọc theo trục dầm [26] chịu lực di động và dầm FGM
có gối tựa đàn hồi [107] chịu tải trọng di động.
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước
Sử dụng phương pháp giải tích, Nguyễn Trung Kiên và cộng sự
[111] nghiên cứu bài toán uốn và dao động của dầm Timoshenko làm
từ FGM chịu lực dọc trục. Bài toán uốn và dao động của dầm FGM
nhưng được Thái Hữu Tài và Võ Phương Thức [112] nghiên cứu
bằng các lý thuyết dầm bậc cao khác nhau. Trên cơ sở lý thuyết biến
dạng trượt bậc ba, Võ Phương Thức và cộng sự [113] xây dựng
phương trình chuyển động cho dầm sandwich FGM có lõi là vật liệu
thuần nhất, sau đó dùng phương pháp phần tử hữu hạn để tính tần số
dao động riêng và các mode dao động. Võ Phương Thức và đồng
nghiệp [34] phát triển mô hình phần tử hữu hạn cho phân tích uốn và
dao động tự do của dầm sandwich. Bài toán dao động và chẩn đoán
vết nứt của dầm FGM được Nguyễn Ngọc Huyên [114], Nguyễn
Ngọc Huyên và Nguyễn Tiến Khiêm [115], Nguyễn Tiến Khiêm và
cộng sự [116, 117] nghiên cứu bằng phương pháp giải tích. Nguyễn
Đình Kiên và cộng sự [118, 119, 120] phát triển các phần tử dầm dựa
trên phương pháp hệ tọa độ đồng hành để nghiên cứu bài toán
chuyển vị lớn của dầm thon làm từ FGM. FEM cũng được Nguyễn
Đình Kiên và đồng nghiệp sử dụng trong phân tích chuyển vị lớn của
khung FGM [121], khung sandwich FGM [33]. Ảnh hưởng của biến
dạng dẻo tới ứng xử mất ổn định và uốn phi tuyến của dầm FGM
được quan tâm nghiên cứu bằng FEM trong thời gian gần đây [122,
123, 124].
6
Dao động của dầm FGM chịu kích động bởi tải trọng di động
được một số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu trong thời gian
gần đây. Phạm Đình Trung [13] phân tích dao động của dầm FGM
dưới tác động của khối lượng hoặc lực điều hòa di động bằng
phương pháp phần tử hữu hạn. Lê Thị Hà và đồng nghiệp xây dựng
mô hình phần tử hữu hạn mới để phân tích dao động của dầm FGM
đa nhịp chịu lực điều hòa di động [14], dầm có mặt cắt ngang thay
đổi chịu nhiều lực di động [15]. Nguyễn Đình Kiên và cộng sự [133]
sử dụng hàm dạng Kosmatka để xây dựng mô hình phần tử hữu hạn
trong nghiên cứu dao động của dầm có mặt cắt ngang không đồng
nhất chịu tải trọng di động với vận tốc thay đổi. Hàm dạng Kosmatka
cũng được Nguyễn Đình Kiên và đồng nghiệp [9] dùng để xây dựng
biểu thức ma trận độ cứng và ma trận khối lượng cho phân tích dầm
2-D FGM chịu lực di động.
1.4. Nhận xét và định hướng nghiên cứu
Nghiên cứu về kết cấu dầm FGM dưới tác dụng của lực di
độngmới chỉ được một số ít tác giả quan tâm nghiên cứu trong thời
gian gần đây. Trong [12], tác giả Lê Thị Hà đã thành công trong việc
xây dựng công thức phần tử hữu hạn để nghiên cứu dao động của
dầm FGM chịu tải trọng di động nhưng ảnh hưởng của lỗ rỗng vi mô
và nhiệt độ môi trường chưa được xét tới. Mặc dù một số tác giả đã
nghiên cứu ảnh hưởng của lỗ rỗng vi mô và nhiệt độ môi trường tới
dao động của dầm FGM, nhưng mới chỉ dừng lại ở bài toán dao động
tự do. Độ cứng và mô-men khối lượng của dầm sẽ thay đổi khi xét
tới ảnh hưởng của lỗ rỗng vi mô và vì thế sẽ ảnh hưởng tới giá trị độ
võng và các tham số động lực học của dầm. Thêm vào đó, khi nhiệt
độ môi trường tăng, dầm không chỉ chịu tải trọng dưới dạng ứng suất
nhiệt mà các hệ số đàn hồi của dầm cũng sẽ suy giảm. Các yếu tố
này ảnh hưởng đáng kể tới ứng xử động lực học của dầm và cần
được nghiên cứu. Từ các lý do nêu trên, bài toán dao động của dầm
FGM có lỗ rỗng vi mô chịu tải trọng di động được đặt ra và nghiên
cứu trong luận án này.
CHƯƠNG 2. DẦM FGM TRONG MÔI TRƯỜNG NHIỆT ĐỘ
2.1. Dầm FGM chịu tải trọng di động
Hình 2.1 minh họa dầm FGM với chiều dài L, thiết diện ngang là
hình chữ nhật với chiều rộng b và chiều cao h không đổi. Dầm chịu
7
tác động của các lực F1, F2, FnF, di động từ trái sang phải với vận
tốc không đổi v. Dầm được giả định được làm từ hai vật liệu thành
phần là gốm và kim loại với tỉ lệ thể tích thay đổi theo hàm số lũy
thừa như sau
1 , 1
2
n
c c m
zV V V
h
(2.1)
trong đó Vc , Vm tương ứng là tỉ lệ thể tích của gốm và kim loại. z là
tọa độ theo chiều cao của dầm; số mũ n (không âm) là tham số vật
liệu, xác định tỷ lệ và sự phân bố của các vật liệu thành phần.
x
yz
bL
h
F1F2F nF
y
lç rçng
z,w
MÆt c¾t ngang dÇm
gèm (Ec, Gc, c)
kim lo¹i (Em, Gm, m) b
h
Hình 2.1. Dầm FGM với lỗ rỗng vi mô chịu tải trọng di động
2.2. Lỗ rỗng vi mô trong dầm FGM
Với mô hình lỗ rỗng vi mô trong [18, 19], tỷ lệ thể tích lỗ rỗng
V (V<<1), được giả định phân bố đều theo cả hai pha kim loại và
gốm. Khi dầm ở trong môi trường nhiệt độ cao, các tính chất hiệu
dụng của dầm FGM được tính theo công thức
1( , ) ( ) ( )
2
( ) ( ) ( ) 2
c m
m m
n
c
zP z T P T P T
h
VP T P T P T
(2.3)
trong đó Pc và Pm tương ứng là tính chất của gốm và kim loại, phụ
thuộc vào nhiệt độ T (K) của môi trường, Vα là tỷ lệ thể tích của lỗ
rỗng vi mô.
2.3. Trường nhiệt độ trong dầm FGM
Trường nhiệt độ phân bố theo chiều cao của dầm FGM có thể
nhận được từ phương trình truyền nhiệt Fourier [91, 103]
8
( ) 0d dTz
dz dz
(2.4)
với các điều kiện biên T = Tc tại z = h/2 và T = Tm tại z = - h/2. Trong
phương trình (2.4), hệ số dẫn nhiệt κ(z) được giả thiết không phụ
thuộc vào nhiệt độ. Giải (2.4) ta thu được trường nhiệt độ phân bố
theo chiều cao của dầm dưới dạng
/2
/2 /2
( ) /
( ) ( )
z h
m c m
h h
dz dzT T T T
z z
(2.6)
Dễ dàng thấy rằng, khi nhiệt độ mặt trên và mặt dưới dầm bằng
nhau, Tc = Tm thì T = Tc = Tm. Trong trường hợp này nhiệt độ tại mọi
điểm trong dầm là như nhau và được gọi là trường nhiệt độ tăng đều
(UTR). Trường hợp Tc ≠ Tm, nhiệt độ tại mọi điểm trong dầm là hàm
phi tuyến của tọa độ z. Trường nhiệt độ vì thế là trường nhiệt độ tăng
phi tuyến (NLTR). Trong luận án này, giá trị tăng của nhiệt độ T
cho NLTR được định nghĩa theo các nghiên cứu [17, 21], cụ thể là:
T = Tc – Tm = Tc - T0 , với T0 = 300K là nhiệt độ quy chiếu.
2.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới tham số vật liệu
Touloukian [130] chỉ ra rằng tính chất P của một vật liệu liên hệ
với nhiệt độ dưới dạng hàm phi tuyến sau
1 2 30 1 1 2 3( 1 )P P P T PT PT PT
(2.18)
trong đó P0, P-1, P1, P2 và P3 là các hệ số phụ thuộc vào nhiệt độ.
Hình 2.2 và 2.3 minh họa ảnh hưởng của tỷ lệ thể tích lỗ rỗng vi
mô Vα và sự tăng nhiệt độ ΔT tới mô-đun đàn hồi hiệu dụng của dầm
FGM tạo bởi thép không gỉ và ô-xit nhôm cho các giá trị V khác
nhau và ΔT = 500K. Mô-đun đàn hồi giảm rõ rệt khi xét tới ảnh
hưởng của lỗ rỗng vi mô, cho cả UTR và NLTR. So sánh Hình 2.2(b)
với Hình 2.3 ta thấy rằng mô-đun đàn hồi hiệu dụng E của dầm FGM
suy giảm mạnh hơn trong trường nhiệt độ là phân bố đều.
2.5. Các phương trình cơ bản
2.5.1. Trường chuyển vị
Chuyển vị ngang của một điểm bất kỳ trong dầm cho bởi
9
0
0
( , , ) ( , ) ( , )
( , , ) ( , )
u x z t u x t z x t
w x z t w x t
(2.24)
trong đó u0(x,t), w0(x,t) tương ứng là chuyển vị dọc trục và
chuyển vị theo phương ngang của điểm nằm trên trục giữa của dầm,
θ(x,t) là góc quay của thiết diện ngang của dầm và t là thời gian.
2.5.2. Trường biến dạng, ứng suất
Từ (2.24) ta nhận được trường biến dạng cho dầm như sau
, 0, ,
z , , 0,
xx x x x
x z x x
u u z
u w w
(2.25)
trong biểu thức trên kí hiệu (..),x được dùng để chỉ đạo hàm riêng
theo biến x và (..),z là đạo hàm riêng theo biến z.
Theo định luật Hook, ứng suất pháp và ứng suất trượt tương ứng
với trường biến dạng (2.25) là:
0, ,
0,
( , ) ( , ) ( , )
( , ) ( , ) ( , )
xx xx x x
xz xz x
z T E z T E z T u z
z T G z T G z T w
(2.26)
trong đó E(z,T) và G(z,T) tương ứng là mô-đun đàn hồi và mô-đun
trượt hiệu dụng , ψ là hệ số hiệu chỉnh.
-0.5 -0.25 0 0.25 0.5
180
200
220
240
260
280
300
320
340
z/h
E
(G
Pa
)
-0.5 -0.25 0 0.25 0.5
180
200
220
240
260
280
300
320
340
z/h
E
(G
Pa
)
n=5
n=10
n=0.1
n=0.5
n=10
n=1
n=5
n=1
n=0.5
n=0.1
(a) T=0 K,V=0 (b) T=0 K,V=0.1
Hình 2.2. Ảnh hưởng của tỉ lệ thể tích lỗ rỗng đến mô-đun đàn
hồi hiệu dụng
10
-0.5 -0.25 0 0.25 0.5
140
160
180
200
220
240
260
280
z/h
E
(G
Pa
)
-0.5 -0.25 0 0.25 0.5
140
160
180
200
220
240
260
280
z/h
E(
G
Pa
)
n=0.5
n=1
n=5
n=10
n=0.1
n=0.5
n=5
n=10
(a) NLTR, T=500 K, V=0.1 (b) UTR, T=500 K, V=0.1
n=0.1
n=1
Hình 2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến mô-đun đàn hồi hiệu dụng
trong trường nhiệt độ UTR và NLTR
2.5.3. Năng lượng biến dạng đàn hồi
Năng lượng biến dạng đàn hồi (U ) có thể viết dưới dạng
22 211 0, 12 0, , 22 , 33 0,
0
1 2
2
L
x x x x xU A u A u A A w dx (2.27)
trong đó V là thể tích dầm, A là diện tích thiết diện ngang của dầm;
các đại lượng A11, A12, A22 và A33 tương ứng là độ cứng dọc trục, độ
cứng tương hỗ giữa dọc trục và uốn, độ cứng chống uốn và độ cứng
chống trượt.
2.5.4. Năng lượng biến dạng do ứng suất nhiệt ban đầu
Giả sử dầm không có ứng suất nhiệt khi nhiệt độ bằng nhiệt độ
quy chiếu T0 và chịu ứng suất nhiệt do sự thay đổi nhiệt độ. Ứng suất
nhiệt ban đầu do sự tăng nhiệt độ T được định nghĩa bởi [30, 91]
( , ) ( , )Txx E z T z T T (2.29)
Năng lượng biến dạng sinh ra do ứng suất nhiệt ban đầu có dạng
[17, 30]
2 20, 0,
0
1 1( , ) ( , )
2 2
L
T x T x
V
U E z T z T Tw dV N w dx (2.30)
trong đó NT là tổng lực dọc