Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam x ã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam
khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ
khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm,
danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực
hiện trên thực tế.
123 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3475 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác ở nước ta hiện nay
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam
khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ
khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm,
danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực
hiện trên thực tế.
3
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được,
trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều
vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự
của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan
tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu,
giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội
làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác...
Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người
khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận,
mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp,
đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm
1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục
4
vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998…
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.
Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S
Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002…
Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ
pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và
tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ
thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
này.
Nhiệm vụ của luận văn
5
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người
khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục
người khác trong những thời gian tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý
hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm
2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm
nhục người khác nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án
nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác.
6
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử,
lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã
hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội
phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về
khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác;
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật
hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về
lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải
pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
7
chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu
này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm
rất cao hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật...
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục.
8
Chương 1
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY
ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp
thuộc
Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất
sớm trong luật hình sự Việt Nam.
Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là
“Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ
luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục người
khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà đánh và
lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường ba bậc;
đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy định mang tính nhân
văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo
đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ luật
còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều xử
giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử giảm
một bậc nữa” [10, tr. 180].
Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một
thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở
Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục
người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300.
9
Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau, thì
mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810].
Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp
bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho
thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì
mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia
trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại
công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì
bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ
hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng,
mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi,
mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong
qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà
bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 –
813].
Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân,
thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính
trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân
ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do
thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục
người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là
để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần
đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định: "Trong khi quan lại đương làm
chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa
điều gì, để cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam
từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng"
10
[46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người
nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy
làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà
không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự
liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54];
Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay
hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên
chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc
hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ
xử" [18, tr. 445].
1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 ra đời
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban
hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính
quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động.
Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban
hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành
Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình
An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với
điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống
tội làm nhục người khác chưa được đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
11
sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở
miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người
trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà
chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06-
1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp dâm,
nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà
thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967,
Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối
xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách
toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới
16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác [39, tr. 389].
Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước
nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước:
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng.
Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở,
12
đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật
hình sự được ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và
nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg
ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định:
“Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt
tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở
quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm
nhục người khác.
1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 đến nay
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự
phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp,
nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình
hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy
đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban
hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý
nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985,
tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
13
VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi
tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).
Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập
pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong
thời gian tới.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm
phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai
chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo
vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người
chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm
nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính
thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ
huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự
trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ
nhân phẩm, danh dự của con người
Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người
khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác
và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng
nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ
3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi
làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để
14
trả thù người đó vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm
tội hay người thân hoặc gia đình họ.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng v