1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian qua đã đặt được một số thành tựu hết sức to lớn, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 48.38 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 60.83 tỷ USD, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng tăng cao, đặc biệt là những mặt hàng có mẫu mã và chất lượng tốt. Cùng với xu thế đó thì tình hình kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam cũng ngày càng được tăng cao và ngày càng phát triển mạnh hơn với những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, triển vọng kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất lớn, vì vậy Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động nhập khẩu để đảy mạnh lĩnh vực kinh doanh của mình.
Xuất phát từ tinh thần và tính cấp thiết của những vấn đề nêu trên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty Bao bì Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn tốt nghiệp là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam để đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện và hoàn thiện tốt hơn hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp được viết bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp và công cụ chủ yếu là thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan.
5. Kết cấu
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba phần chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nhập khẩu và sự cần thiết để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
89 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2554 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại tổng công ty bao bì Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian qua đã đặt được một số thành tựu hết sức to lớn, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 48.38 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 60.83 tỷ USD, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng tăng cao, đặc biệt là những mặt hàng có mẫu mã và chất lượng tốt. Cùng với xu thế đó thì tình hình kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam cũng ngày càng được tăng cao và ngày càng phát triển mạnh hơn với những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, triển vọng kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất lớn, vì vậy Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động nhập khẩu để đảy mạnh lĩnh vực kinh doanh của mình.
Xuất phát từ tinh thần và tính cấp thiết của những vấn đề nêu trên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty Bao bì Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn tốt nghiệp là trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam để đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện và hoàn thiện tốt hơn hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2007.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp được viết bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp và công cụ chủ yếu là thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan.
Kết cấu
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba phần chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nhập khẩu và sự cần thiết để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tê, vấn đề mở rộng và phát triển thương mại quốc tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên tất yếu và cấp bách đối với các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế giúp các quốc gia có thể đáp ứng một cách đầy đủ hơn những nhu cầu đa dạng của con người. Mặt khác, thương mại quốc tế còn giúp các quốc gia phát huy được tối đa khả năng, tận dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn lực sẵn có của quốc gia mình.
Với ý nghĩa như vậy, nhập khẩu trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng (cái, tấn, v.v...)
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Nhập khẩu có rất nhiều hình thức đa dạng mà từ đó các doanh nghiệp có thể tìm cho mình một hình thức nhập khẩu phù hợp nhất, có hiệu quả nhất trước sự thay đổi của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế. Có thể nói đến một số hình thức nhập khẩu mà các doanh nghiệp thường lựa chọn sau:
1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp (hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh) là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết lập phương án kinh doanh hợp lý, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế, doanh nghiệp tiến hành hoạt động nhập khẩu trực tiếp với đối tác nước ngoài.
Đặc điểm của nhập khẩu trực tiếp: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhập khẩu phải tự chịu trách nhiệm tất cả mọi rủi ro, cho nên cần phải có sự xem xét kỹ lưỡng từ bước thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, rồi ký kết hợp đồng… Vì nhập khẩu tự doanh nghĩa là doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để kinh doanh, phải chịu mọi chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí giao nhận hàng hoà, chi phí lưu kho, chi phí tiêu thụ hàng hoá, thuế,… Do đó, doanh nghiệp phải tính toán rất thận trọng ngay từ việc chọn mặt hàng, nghiên cứu thị trường, marketing,…
Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với bên nước ngoài, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức như: bán lẻ, trao tay.
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không được phép xuất nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác: trong hoạt động này, doanh nghiệp xuất nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này phải lập hai hợp đồng:
Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
1.1.2.3. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi, lỗ thì cùng nhau chịu.
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh: ở hoạt động nhập khẩu này thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh sẽ phải chịu rủi ro ở mức thấp hơn so với nhập khẩu trực tiếp vì trường hợp này doanh nghiệp chỉ phải góp một số vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia tăng theo vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu dựa theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp của Nhà nước).
1.1.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà chính bằng hàng hoá. Ở đây mục đích chính của hoạt động nhập khẩu hàng hoá không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng: hoạt động này có lợi vì cùng một hợp đồng có thể tiến hành cả hoạt động xuất và hoạt động nhập, do đó có thể thu lãi từ hai hoạt động. Hoạt động xuất phải tương đương về giá trị; bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua; doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và xuất, doanh số tiêu thụ tính trên số hàng nhập và xuất.
1.1.2.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận, tuy nhiên những hàng nhập khẩu này không được chế biến tại nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất: doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho số tiền thu được lớn hơn chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp nước tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất, cả nhập, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Để đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lừng; hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất, mà chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do người tái xuất thu từ người nhập khẩu giao cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do chênh lệch giữa thời điểm thu tiền từ người nhập khẩu và thời điểm trả tiền cho người xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước; nhập khẩu để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu; nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước, đuổi kịp các nước tiên tiến, bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, vì nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng sản xuất được trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là nước đối tác mà mình đã nhập hàng của họ.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “yếu tố đầu ra” cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế.
1.2. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
1.2.1. Nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp luôn phải chú trọng đến thị trường của nước mà mình sẽ nhập khẩu. Có thể cùng một mặt hàng nhưng chất lượng cũng như giá cả của từng hãng (từng nước) sẽ khác nhau. Mặt khác, từ những yếu tố của thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu ở từng thị trường, từ đó sẽ có kế hoạch nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá để kinh doanh thì còn phải nghiên cứu thị trường mà mình sắp kinh doanh mặt hàng đó. Doanh nghiệp nào có khả năng phản ứng một cách linh hoạt, nhanh nhạy với thị trường thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng là cực kỳ quan trọng. Việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu đối với một doanh nghiệp bao gồm các bước sau:
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường.
+ Xác định mức giá nhập khẩu đối với từng thị trường.
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu, giá sẽ bán ra trên thị trường nội địa (nếu có).
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường ( cung, cầu hàng hoá trên thị trường, …).
Trên cơ sở phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ có thể nắm chắc xu hướng biến động về giá của loại hàng hoá mà doanh nghiệp sẽ nhập để từ đó có thể lên phương án nhập khẩu đối với từng mặt hàng cũng như từng thị trường. Thêm vào đó doanh nghiệp còn phải tính đến các chi phí như: cước vận tải, lãi suất ngân hàng,… để quyết định tăng hay giảm giá thành nhập khẩu hàng hoá.
1.2.2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
* Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp
Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp là phương thức giao dịch trong đó mối quan hệ giữa người bán và người mua được liên hệ một cách trực tiếp với nhau bằng cách gặp gỡ hay qua thư tín để thoả thuận về các điều kiện giao dịch (phương thức vận tải, phương thức thanh toán,…). Phương thức giao dịch này có thể được thực hiện ở mọi nơi, vào bất kỳ thời điểm nào và việc thực hiện nội dung của lần giao dịch này là tự nguyện, không phụ thuộc vào lần giao dịch trước. Đối với phương thức giao dịch này thì cả người mua và người bán đều cùng tiết kiệm được thời gian, chi phí, hạn chế được những sai lệch giữa hai bên tuy nhiên thì phương thức giao dịch này không hiệu quả bằng việc sử dụng bên trung gian am hiểu thông tin rõ về thị trường.
* Phương thức giao dịch qua trung gian
Phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch trong đó mối quan hệ giữa người mua và người bán và các điều kiện liên quan được thực hiện qua một khâu trung gian, khâu trung gian này có thể là một cá nhân hay một tổ chức. Có hai hình thức trung gian chủ yếu là đại lý và môi giới.
Đại lý có thể là thể nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều công việc theo sự ủy thác của người ủy thác. Quan hệ giữa bên uỷ thác và đại lý (bên nhận uỷ thác) được xác định bằng một hợp đồng gọi là hợp đồng đại lý (thường là hợp đồng dài hạn).
Môi giới có thể là thể nhân hoặc pháp nhân làm trung gian liên hệ giữa người mua và người bán. Khi thực hiện các ngiệp vụ, người môi giới không đứng tên mình, họ không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm trong việc các bên có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Việc trung gian của người môi giới thường theo từng lần, từng hợp đồng chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng phương thức giao dịch qua trung gian mang lại cho doanh nghiệp những thuận lợi nhất định vì người trung gian có những năng lực về nghiệp vụ, tận dụng được các mối quan hệ sẵn có, các kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường, luật pháp, phong tục tập quán của địa phương,… chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ giảm bớt được những chi phí, thời gian trong khâu nghiên cứu thị trường. Thế nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ không có được sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường cũng như việc phải chia sẻ lợi nhuận với bên trung gian.
* Phương thức giao dịch tại sở giao dịch
Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt mà tại đó, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Việc mua bán tại sở giao dịch được thực hiện thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, giá cả hàng hoá được công bố ở sở giao dịch có thể coi là giá tham khảo trong việc xác định giá quốc tế của loại hàng hoá đó.
* Phương thức giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Hội chợ là hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian nhất định, tại đó người bán trưng bày và bán sản phẩm, hàng hoá của mình thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với người mua tại hội chợ.
Triển lãm là hoạt động mang tính chất trưng bày thành tựu của một nền kinh tế hay của một tổ chức, một ngành nào đó. Nhưng đến nay, triển lãm còn là nơi mà các cá nhân hay tổ chức kinh doanh có thể tiếp xúc để tiến hành việc giao dịch , ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
1.2.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu
1.2.3.1. Đàm phán trong kinh doanh quốc tế
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, các bên đối tác thường có quốc tịch khác nhau nên việc tiến hành đàm phán sẽ gặp những hạn chế nhất định về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp giữa các bên. Do đó, khi tiến hành đàm phán trong kinh doanh quốc tế phải rất chú trọng đến những vấn đề này để tránh việc hiểu nhầm, xâm phạm đến những nét văn hoá truyền thống cũng như luật pháp của bên đối tác. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể thành công trong quá trình đàm phán, đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Để tránh việc hiểu nhầm ý do khác nhau về ngôn ngữ giữa các bên, nên chọn một loại ngôn ngữ để sử dụng trong quá trình đàm phán cũng như ký kết hợp đồng, điều này đòi hỏi phải có chuyên gia về ngôn ngữ trong quá trình đàm phán.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế là đàm phán trong lĩnh vực kinh doanh nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…Vì thế, muốn thành công, doanh nghiệp cần phải nắm chắc, am hiểu các quy luật kinh tế và vận dụng nó một cách hợp lý.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế chịu sự ảnh hưởng của các quan hệ chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, nếu như quan hệ ngoại giao giữa các nước này tốt đẹp thì sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán.
1.2.3.2. Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Khi tiến hành ký kết hợp đồng nhập khẩu, các doanh nghiệp cần chú ý đến những điều khoản sau:
* Điều khoản về hàng hoá
Tên hàng: Cần ghi đầy đủ tên hàng ( tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học nếu có) để tránh nhầm lẫn.
Số lượng, chất lượng: quy định chất lượng hàng hoá một cách chính xác, tỉ mỉ. Ghi rõ số lượng hàng hoá theo từng đơn vị, không ghi bằng cách ước chừng số lượng.
Quy cách đóng gói, trọng lượng hàng hoá: ghi rõ hàng hoá được đóng gói theo phương thức nào, nếu theo bao