Sau hơn hai mươi năm đổi m ới, Việt Nam đã có những bước phát triển
vượt bậc về kinh tế và đang được đánh giá là một môi trường kinh doanh lý
tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong hơn 20 năm qua, Việt
Nam không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, là thành
viên chính thức của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn, thể hiện mong
muốn tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO,
Việt Nam đã chứng minh với thế giới rằng nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập
với nền kinh tế thế giới và sẵn sàng tham gia vào “sân chơi chung” trong tiến
trình tự do hoá thương mại.
Là thành viên của WTO, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các cam
kết cắt giảm thuế quan nói chung và đối với hàng công nghiệp nói riêng để
mở cửa cho hàng hoá của nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào Việt nam. Việc
điều chỉnh cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước
mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp khi phải đối mặt với cuộc
cạnh tranh bình đẳng, khốc liệt với các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty nước
ngoài, vì thực tế các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp
nước ta còn non yếu và thiếu năng lực cạnh tranh.
Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp để gia nhập
WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách thương mại hàng công
nghiệp của mình. Điều này sẽ có những tác động nhất định đối với các doanh
nghiệp công nghiệp của Việt Nam. Tác động sẽ là tích cực hay không tích
cực?
96 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
NGÔ ĐỨC CHIẾN
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI
VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP THEO HIỆP ĐỊNH
CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGYỄN THỊ MƠ
HÀ NỘI 2007
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển
vượt bậc về kinh tế và đang được đánh giá là một môi trường kinh doanh lý
tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong hơn 20 năm qua, Việt
Nam không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, là thành
viên chính thức của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn, thể hiện mong
muốn tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO,
Việt Nam đã chứng minh với thế giới rằng nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập
với nền kinh tế thế giới và sẵn sàng tham gia vào “sân chơi chung” trong tiến
trình tự do hoá thương mại.
Là thành viên của WTO, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các cam
kết cắt giảm thuế quan nói chung và đối với hàng công nghiệp nói riêng để
mở cửa cho hàng hoá của nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào Việt nam. Việc
điều chỉnh cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước
mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp khi phải đối mặt với cuộc
cạnh tranh bình đẳng, khốc liệt với các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty nước
ngoài, vì thực tế các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp
nước ta còn non yếu và thiếu năng lực cạnh tranh.
Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp để gia nhập
WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách thương mại hàng công
nghiệp của mình. Điều này sẽ có những tác động nhất định đối với các doanh
nghiệp công nghiệp của Việt Nam. Tác động sẽ là tích cực hay không tích
cực? Làm thế nào để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu ảnh hưởng
2
của tác động phi tích cực ? Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể,
đầy đủ hơn về các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan
đối với hàng công nghiệp, về tác động của việc điều chỉnh chính sách thương
mại hàng công nghiệp để từ đó có các giải pháp phát huy các tác động tích
cực và hạn chế các tác động phi tích cực . Đó là lý do để người viết chọn vấn
đề “Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các
doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” làm đề tài cho
Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Ở nước ngoài
Hiện đã có một số tài liệu như Fernandez de Cordobe, Santiago,
SamLaird and Jose Maria Serena 2004 „ Trade Liberalization and
Adjustment Costs „ Trade Analysis Branch, UNs Conference on Trade and
Development nghiên cứu về lĩnh vực điều chỉnh chính sách thương mại.
2.2. Ở Việt nam
Ngoài các bài báo, tạp chí và tập san có bài viết nghiên cứu về chính
sách thương mại, hiện đã có công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến
sĩ, của tác giả Bùi Thị Lý „ Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt nam
khi gia nhập WTO „ 2002.
Cho đến nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về „ Điều chỉnh chính sách
thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt nam sau khi Việt
nam gia nhập WTO „, đây là tài liệu đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3
Trên cơ sở phân tích thực tế điều chỉnh sách thuế quan đối với hàng
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua, sau khi làm rõ các cam kết
của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp,
đề tài đề xuất giải pháp phát huy những tác động tích cực của việc điều chỉnh
chính sách thương mại đối với hàng công nghiệp trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ
thể sau đây :
- Giới thiệu tổng quan về Hiệp định chung về Thuế quan và Thương
(GATT)
- Làm rõ yêu cầu của GATT đối với các nước về việc cắt giảm thuế
quan
- Phân tích đặc điểm của hàng công nghiệp và các cam kết của Việt
nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp
- Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công
nghiệp ở Việt nam trong thời gian qua
- Đề xuất giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động phi
tích cực trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối
với Việt nam.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định trong Hiệp định
GATT về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp và các cam kết của
Việt Nam trong WTO về lĩnh vực này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn chỉ ở điều chỉnh chính sách
thuế quan đối với hàng công nghiệp, không mở rộng sang các sản phẩm
4
khác. Khi lựa chọn sản phẩm công nghiệp để phân tích, luận văn chọn 3 sản
phẩm là hàng dệt may, hàng da giầy và ô tô.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi
mới kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như phương
pháp phân tích, diễn giải và quy nạp ; phương pháp thống kê, so sánh để khái
quát, hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và sự cần
thiết phải điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp trong
thương mại quốc tế.
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Tác động của điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công
nghiệp đối với doanh nghiệp Việt Nam và một số giải pháp.
5
CHƢƠNG 1
HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI
VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI
Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai, các nước đã có
những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các
quan hệ thương mại quốc tế. Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (mà sau này thường được gọi
tắt là GATT - được viết tắt từ tên tiếng Anh của Hiệp định : General
Agreement on Trade and Tariff ) vào năm 1947 và Hiệp định có hiệu lực vào
ngày 1.1.1948. Các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại quốc
tế về hàng hoá mà mục tiêu của nó là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt
giảm thuế quan đối với hàng hoá trao đổi giữa các nước thành viên của
GATT. Qua các năm sau, văn bản của GATT đã được sửa đổi bổ sung thêm
nhiều quy định mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc liên quan đến
cắt giảm thuế quan trong thương mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra
nhiều Hiệp định kèm theo chi tiết hoá một số điều khoản chính của GATT
cũng đã được thông qua. Các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp
định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát
triển sự nghiệp của GATT, theo đó WTO chính thức thành lập độc lập với hệ
thống Liên Hiệp Quốc và đi vào hoạt động từ 1.1.1995.
1.1.1. Sự ra đời của GATT
Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và
thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ
6
chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế, đồng thời với sự ra đời của
các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các
nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là
một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng
Kinh tế - Xã hội Liên hiệp quốc triệu tập một ". Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức
Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ
điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy
định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và
dịch vụ.
Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến
hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã
tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc
tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO,
các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa
phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000
nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị
khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới [ 5 ].
Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc
thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân
nhượng nói trên. Kết quả gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng
thuế quan được đưa ra trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm
trong Hiến chương ITO và nếu ITO được thành lập thì GATT sẽ hết hiệu lực
và hoà nhập vào quy định của ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến
chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc,
7
các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hóa thương mại, và bắt đầu khắc
phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm
1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp
dụng tạm thời " (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1984, thông qua nghị định thư này,
Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi.
Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận.
Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị
về thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc
hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc
hội Mỹ rất phản đối hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng
góp vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950,
Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua
Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn
tác dụng và do đó ITO đã không thể ra đời. Két quả là, mặc dù chỉ tạm thời,
GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế
từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) ra đời.
Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán ( xem bảng 1.1 ).
Bảng 1.1 : GATT đã trải qua 8 Vòng đàm phán
Năm Địa điểm/Tên Chủ đề đàm phán Số nước
1947 Geneva Cắt giảm Thuế quan 23
1949 Annecy Cắt giảm Thuế quan 13
1951 Torquay Cắt giảm Thuế quan 38
1956 Geneva Cắt giảm Thuế quan 26
1960-1961 Geneva (Vòng Dillon) Cắt giảm Thuế quan 26
1964-1967 Geneva
(Vòng Kenedy)
Cắt giảm Thuế quan và các biện pháp
chống bán phá giá
62
1973-1979 Geneva
(Vòng Tokyo)
Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi
quan thuế, các hiệp định "khung"
102
8
1986-1994 Geneva
(Vòng Uruguay)
Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi
quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt,
nông nghiệp, thành lập WTO, v.v…
123
Nguồn : [ 5 ]
Nhìn từ bảng 1.1, có thể thấy rõ là cả 8 Vòng đàm phán của GATT đều tập
trung vào việc cắt giảm thuế quan, đây chính là mục đích mà các nước có nền
công nghiệp phát triển mong muốn và hướng tới nhằm tăng lợi ích của mình.
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng
góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hóa và tự do hóa thương
mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995,
GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội
dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc
giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư,
và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các
quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế
trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung
bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%. Trong đó, đối tượng cắt
giảm thuế của GATT từ khi thành lập cho đến nay vẫn là hàng công nghiệp.
1.1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động
Chức năng của GATT
GATT có ba chức năng cơ bản:
- Một là điều tiết mọi hoạt động thương mại của các nước tham gia ký kết;
- Hai là diễn đàn thương lượng đa phương lớn nhất để thảo luận việc
từng bước tự do hóa thương mại quốc tế về hàng hóa thông qua cắt giảm thuế
quan;
9
- Ba là tạo ra cơ chế để các nước thông qua GATT có thể giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế .
Nguyên tắc hoạt động: GATT hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc
sau:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử : Đây là nguyên tắc quan trọng
nhất, quy định các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi trên cơ sở tối
huệ quốc về thuế xuất nhập khẩu (MFN) và đối xử quốc gia (NT) trong
thương mại. Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là :
+ Các nước tham gia các khối mậu dịch tự do hay liên minh thuế quan
khu vực như EU, NAFTA, AFTA... có quyền áp dụng với nhau một biểu
thuế, một hàng rào phi quan thuế riêng.
+ Các nước đang phát triển được ưu đãi riêng, được các nước phát triển
dành cho Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối
huệ quốc.
- Nguyên tắc có đi có lại : Một nước quyết định mở cửa thị trường của
mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với hàng nhập) có quyền
đỏi hỏi các thành viên khác có những nhượng bộ tương tự.
- Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh : Yêu cầu các nước
thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi thuế quan, thừa
nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu.
- Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT : Cho phép mỗi thành
viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế nhập khẩu hoặc đình
chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước
đang bị thương tổn, hoặc do khó khăn về cán cân thanh toán.
- Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hóa của các nước đang phát triển :
Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị trườn, hoặc ít bị ràng
buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
10
1.1.3. Những nội dung cơ bản của GATT
Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm thuế
quan không ngừng và ràng buộc sao cho các nước tham gia ký kết không
tăng thuế quan trở lại. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước
tham gia GATT đã đưa ra các cam kết ràng buộc cắt giảm thuế đối với hầu
hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu. Để thực hiện cam kết của mình,
các nước ký kết GATT phải nỗ lực điều chỉnh chính sách thuế quan cho phù
hợp với quy định của GATT.
Sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành
cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8%
trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995. Giá trị hàng hóa nhập khẩu vào các nước
này được miễn thuế hoàn toàn lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm
phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất
cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối
với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Số lượng
các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết
ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển
ràng buộc 73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%) [ 32 ]
Như vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan
không tăng trở lại đối với hàng công nghiệp. Thật vậy với 8 vòng đàm phán,
các thành viên của GATT đã nhất trí với nội dung chủ yếu là không ngừng
cắt giảm thuế quan hàng hoá nới chung và hàng công nghiệp nói riêng. Trên
thực tế lợi ích của việc cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp chủ yếu
rơi vào tay các nước có nền công nghiệp phát triển, các nước thành viên mới
của GATT thường là các nước đang hoặc kém phát triển khi gia nhập phải tuân
thủ những điều kiện này. Vì vậy , họ phải điều chỉnh chính sách thuế quan trong
nước của họ, đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển.
11
1.1.4. Các quy tắc cơ bản của GATT
Như đã trình bày ở trên, mục tiêu chính của GATT là tự do hoá
thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, đặc biệt là đối với hàng công
nghiệp. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, GATT đã đưa ra 4 quy tắc pháp lý
để ràng buộc các nước tham gia. Bốn quy tắc đó là :
1.1.4.1. Quy tắc thứ nhất
Quy định về việc giảm và xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại
khác thông qua đàm phán đa phương. Mức giảm thuế quan được liệt kê trên
cơ sở dòng thuế quan trong Danh mục nhượng bộ của mỗi nước. Mức thuế
trong Danh mục nhượng bộ này còn được gọi là mức thuế ràng buộc. Các
nước không được phép nâng thuế suất vượt qua mức thuế ràng buộc đã ghi
trong Danh mục nhượng bộ.
- Cần cắt giảm dần thuế quan và bị ràng buộc không tăng thêm.
Giảm thuế quan
Quy tắc quan trọng thứ nhất của GATT là phải giảm thuế quan và các
biện pháp khác mà các quốc gia duy trì để bảo hộ nền sản xuất nội địa và nếu
có thể, loại bỏ thông qua đàm phán giữa các quốc gia thành viên, và mức
thuế đã giảm phải được cam kết ràng buộc là sẽ không tăng thêm.
Cam kết không tăng thêm
Cần giải thích thêm khái niệm "cam kết ràng buộc". Mức thuế quan
thỏa thuận tại các cuộc đàm phán cũng như các cam kết khác của các nước
ghi lại trong Danh mục nhượng bộ. Mỗi quốc gia thành viên của WTO có
một danh mục riêng và có nghĩa vụ không được áp đặt thuế quan hay các
khoản thuế, lệ phí khác "cao hơn mức đã đưa ra" tại danh mục của mình. Các
quốc gia không được phép áp dụng các biện pháp như áp đặt hạn chế định
lượng làm giảm giá trị của các nhượng bộ thuế quan. Mức thuế quan ghi
trong danh mục còn được gọi là thuế suất ràng buộc.
12
Ràng buộc thuế quan.
Các nước không được tự động tăng thuế vượt quá mức ràng buộc ghi
trong Danh mục nhượng bộ. Ngoài nhiều vấn đề khác, Danh mục này liệt kê
từng sản phẩm với thuế suất trước khi đàm phán và thuế suất mà một nước
đã thỏa thuận "trong quá trình đàm phán để ràng buộc thuế suất".
Trong đàm phán thương mại, một nước có thể thỏa thuận:
Ràng buộc thuế suất dương (chẳng hạn 10%) hay thuế suất bằng
không hiện hành; hoặc
Giảm thuế suất, chẳng hạn từ 10% xuống còn 5%, và ràng buộc thuế
suất đã giảm.
Một quốc gia cũng có thể ràng buộc thuế suất ở mức trần cao hơn thuế
đã thỏa thuận giảm trong đàm phán. Như vậy, một quốc gia đã chấp nhận
giảm thuế suất từ 10% xuống 5% cũng có thể nêu ra rằng, trong khi sẽ áp
dụng mức giảm thuế đối với hàng nhập khẩu như đã thỏa thuận thì thuế suất
ràng buộc vẫn là 8%. Trong trường hợp này, quốc gia đó có thể tự do tăng
thuế suất lên tới 8% bất kỳ lúc nào mà không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào
của mình theo GATT.
Vòng đàm phán Uruguay đã mang lại những tiến bộ to lớn trong việc
ràng buộc thuế quan của mọi quốc gia. Tất cả quốc gia - phát triển, đang phát
triển và các nền kinh tế chuyển đổi - đều ràng buộc thuế quan trong lĩnh vực
công nghiệp: hơn 98% hàng nhập khẩu vào các nước phát triển và chuyển
đổi sẽ được nhập khẩu theo mức thuế quan ràng buộc.
Đối với hàng nhập khẩu vào các nước đang phát triển, tỷ trọng hà