1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Đảng, Nhà nước ta cũng luôn chú trọng tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm hạn chế các vụ phạm pháp hình sự, đảm bảo tốt trật tự an toàn xã hội, góp phần ổn định tình hình chung của đất nước. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng, tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường đã làm xói mòn đạo đức xã hội, một bộ phận không ít cư dân sống tùy tiện, buông thả, ích kỷ, thực dụng. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật còn nhiều vấn đề bất cập, chưa hoàn thiện; hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn nhiều sơ hơ, thiếu sót.v.v .dẫn đến tình trạng phạm pháp hình sự ở nước ta vẫn còn diễn biến khá phức tạp, đặc biệt là các vụ án có sử dụng bạo lực mang tính chất manh động, hung hãn, côn đồ như : Giết người, cướp tài sản, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, trong đó có các vụ án cố ý gây thương tích đã làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của một bộ phận dân cư, để lại những thương tích tầm trọng ở một số nạn nhân; gây ra sự lo lắng, bất an cho cộng đồng xã hội. Như Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác Công an năm 2004 số 07/ BC- BCA (V11) ngày 09/ 01/ 2005 đã đánh giá “ Tội phạm về TTXH tuy được kiềm chế nhưng các băng nhóm tội phạm đâm thuê, chém mướn, xiết nợ, trả thù, thanh toán lẫn nhau, hành hung người thi hành công vụ. vẫn diễn biến phức tạp và tập trung nhiều ở các thành phố lớn”. Báo cáo kết luận:“ Tỷ lệ điều tra, khám phá các vụ án về TTXH đạt thấp, chưa đạt chỉ tiêu đề ra”. Còn tại Nghị quyết số 08- NQ/ TW, ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra là: “Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp giữa cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm”[26]. Triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của Đảng ủy CATW về nhiệm vụ công tác Công an năm 2005, số 04/ NQ/ ĐU CATW (VP) ngày 29 tháng 12 năm 2004 đã xác định mục tiêu, yêu cầu của công tác Công an năm 2005 là: “ Tiếp tục kiềm chế hoạt động của các loại tội phạm, phát hiện triệt phá hết các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, các tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội”[25].
Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn của cả nước và khu vực phía Nam. Với dân số hơn 6 triệu người, gồm 24 quận, huyện; 318 phường, xã, thị trấn; là địa phương có số dân tạm trú biến động lớn ( hơn 1,5 triệu người tạm trú) và là thành phố nằm trung tâm khu kinh tế trọng điểm phía Nam được bao bọc xung quanh bởi các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu và Long An nên tốc độ phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hóa rất nhanh. Tuy vậy, cùng với xu thế chung của cả nước và chịu ảnh hưởng, tác động của nhiều nguyên nhân thời kinh tế mở cửa, lại là địa bàn trọng điểm về ANTT cho nên tình hình phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh luôn diễn biến hết sức phức tạp. Tính trung bình hàng năm có khoảng 7.500 vụ phạm pháp hình sự xảy ra, trong đó hơn 550 là các vụ án cố ý gây thương tích. Tính riêng trong năm 2004 đã có 6.958 vụ phạm pháp hình sự và 455 vụ cố ý gây thương tích, để lại thương tật cho nhiều người, tiêu hao nhiều thời gian, tiền bạc của nhân dân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho một bộ phận cộng đồng dân cư. Trong khi đó, công tác điều tra, xử lý các vụ án cố ý gây thương tích của lực lượng CSĐT Công an thành phố Hồ Chí Minh còn gặp nhiều vướng mắc, nhất là việc truy bắt đối tượng gây án; xác định và lấy lời khai người làm chứng; xác định mức thương tật của người bị hại, xác định khung tội danh đối với kẻ gây án. dẫn đến tình trạng có nhiều vụ án để kéo dài không giải quyết dứt điểm, nhiều vụ phải xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp hoặc bị khiếu kiện nhiều nơi, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Công an, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp. Đặc biệt, hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ trước đến nay chưa được đầu tư nghiên cứu một cách bài bản, khoa học cả trên phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “ Điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu.
Thời gian qua đã có một số đề tài của các tác giả trong và ngoài ngành Công an nghiên cứu về loại tội phạm cố ý gây thương tích và hoạt động điều tra của lực lượng CSĐT đối với các vụ án cố ý gây thương tích, tuy vậy các đề tài trên đều nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau; nghiên cứu về đối tượng, phạm vi hoặc theo các gốc độ khác nhau, chưa có đề tài nào nghiên cứu ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành, như:
- Tổ chức hoạt động điều tra tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe người khác trên địa bàn thành phố Hà nội. ( tác giả: Vũ Đức Thắng- năm 1996).
- Đặc điểm hình sự tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn nông thôn tỉnh Nghệ an và các giải pháp phòng ngừa, điều tra khám phá. ( tác giả: Đào Hồng Lập- năm 1998)
- Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do nguyên nhân xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.( tác giả: Nguyễn văn Chức- năm 2001).
- Điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe người khác trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh của lực lượng CSĐT. ( tác giả: Hoàng Thanh Huyền- năm 2002).
- Đặc điểm hình sự tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra. ( tác giả: Trần Nguyên Quân- năm 2003).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích :
+ Củng cố lý luận về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT Công an thành phố Hồ Chí Minh tiến hành trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành.
- Làm rõ thực trạng hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2005.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài này nghiên cứu về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2005.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành. Đồng thời kết quả của luận văn còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại các trường CAND.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm góp phần giúp Công an địa phương nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH tiến hành trong phạm vi cả nước nói chung và tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên hệ thống phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự.
- Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp so sánh, phân tích, thống kê; tổng hợp;
+ Phương pháp trao đổi, tọa đàm, tham khảo ý kiến chuyên gia;
+ Phương pháp quan sát thực tế.
7. Cấu trúc của đề tài: Được chia làm 3 phần sau:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung: Gồm 3 chương
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành.
+ Chương 2: Thực trạng hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ 2001 đến tháng 6/ 2005.
+ Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
- Kết luận.
- Phần phụ lục.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
192 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7033 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ANTT An ninh trật tự.
BLHS Bộ luật hình sự.
CA Công an.
CAND Công an nhân dân.
CSĐ T Cảnh sát điều tra.
CSKV Cảnh sát khu vực.
CSND Cảnh sát nhân dân.
NS Năm sinh.
QLHC Quản lý hành chính.
TTXH Trật tự xã hội.
TP Thành phố.
TW Trung ương.
XHCN Xã hội chủ nghĩa.
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Đảng, Nhà nước ta cũng luôn chú trọng tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm hạn chế các vụ phạm pháp hình sự, đảm bảo tốt trật tự an toàn xã hội, góp phần ổn định tình hình chung của đất nước. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng, tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường đã làm xói mòn đạo đức xã hội, một bộ phận không ít cư dân sống tùy tiện, buông thả, ích kỷ, thực dụng. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật còn nhiều vấn đề bất cập, chưa hoàn thiện; hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn nhiều sơ hơ, thiếu sót.v.v….dẫn đến tình trạng phạm pháp hình sự ở nước ta vẫn còn diễn biến khá phức tạp, đặc biệt là các vụ án có sử dụng bạo lực mang tính chất manh động, hung hãn, côn đồ như : Giết người, cướp tài sản, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, trong đó có các vụ án cố ý gây thương tích đã làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần của một bộ phận dân cư, để lại những thương tích tầm trọng ở một số nạn nhân; gây ra sự lo lắng, bất an cho cộng đồng xã hội. Như Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác Công an năm 2004 số 07/ BC- BCA (V11) ngày 09/ 01/ 2005 đã đánh giá “ Tội phạm về TTXH tuy được kiềm chế nhưng các băng nhóm tội phạm đâm thuê, chém mướn, xiết nợ, trả thù, thanh toán lẫn nhau, hành hung người thi hành công vụ... vẫn diễn biến phức tạp và tập trung nhiều ở các thành phố lớn”. Báo cáo kết luận:“ Tỷ lệ điều tra, khám phá các vụ án về TTXH đạt thấp, chưa đạt chỉ tiêu đề ra”. Còn tại Nghị quyết số 08- NQ/ TW, ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra là: “Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp giữa cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm”[26]. Triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của Đảng ủy CATW về nhiệm vụ công tác Công an năm 2005, số 04/ NQ/ ĐU CATW (VP) ngày 29 tháng 12 năm 2004 đã xác định mục tiêu, yêu cầu của công tác Công an năm 2005 là: “ Tiếp tục kiềm chế hoạt động của các loại tội phạm, phát hiện triệt phá hết các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, các tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội”[25].
Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn của cả nước và khu vực phía Nam. Với dân số hơn 6 triệu người, gồm 24 quận, huyện; 318 phường, xã, thị trấn; là địa phương có số dân tạm trú biến động lớn ( hơn 1,5 triệu người tạm trú) và là thành phố nằm trung tâm khu kinh tế trọng điểm phía Nam được bao bọc xung quanh bởi các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu và Long An nên tốc độ phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hóa rất nhanh. Tuy vậy, cùng với xu thế chung của cả nước và chịu ảnh hưởng, tác động của nhiều nguyên nhân thời kinh tế mở cửa, lại là địa bàn trọng điểm về ANTT cho nên tình hình phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh luôn diễn biến hết sức phức tạp. Tính trung bình hàng năm có khoảng 7.500 vụ phạm pháp hình sự xảy ra, trong đó hơn 550 là các vụ án cố ý gây thương tích. Tính riêng trong năm 2004 đã có 6.958 vụ phạm pháp hình sự và 455 vụ cố ý gây thương tích, để lại thương tật cho nhiều người, tiêu hao nhiều thời gian, tiền bạc của nhân dân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho một bộ phận cộng đồng dân cư. Trong khi đó, công tác điều tra, xử lý các vụ án cố ý gây thương tích của lực lượng CSĐT Công an thành phố Hồ Chí Minh còn gặp nhiều vướng mắc, nhất là việc truy bắt đối tượng gây án; xác định và lấy lời khai người làm chứng; xác định mức thương tật của người bị hại, xác định khung tội danh đối với kẻ gây án... dẫn đến tình trạng có nhiều vụ án để kéo dài không giải quyết dứt điểm, nhiều vụ phải xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp hoặc bị khiếu kiện nhiều nơi, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Công an, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp. Đặc biệt, hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ trước đến nay chưa được đầu tư nghiên cứu một cách bài bản, khoa học cả trên phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “ Điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Tình hình nghiên cứu.
Thời gian qua đã có một số đề tài của các tác giả trong và ngoài ngành Công an nghiên cứu về loại tội phạm cố ý gây thương tích và hoạt động điều tra của lực lượng CSĐT đối với các vụ án cố ý gây thương tích, tuy vậy các đề tài trên đều nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau; nghiên cứu về đối tượng, phạm vi hoặc theo các gốc độ khác nhau, chưa có đề tài nào nghiên cứu ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành, như:
- Tổ chức hoạt động điều tra tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe người khác trên địa bàn thành phố Hà nội. ( tác giả: Vũ Đức Thắng- năm 1996).
- Đặc điểm hình sự tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn nông thôn tỉnh Nghệ an và các giải pháp phòng ngừa, điều tra khám phá. ( tác giả: Đào Hồng Lập- năm 1998)
- Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do nguyên nhân xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.( tác giả: Nguyễn văn Chức- năm 2001).
- Điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe người khác trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh của lực lượng CSĐT. ( tác giả: Hoàng Thanh Huyền- năm 2002).
- Đặc điểm hình sự tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra. ( tác giả: Trần Nguyên Quân- năm 2003).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích :
+ Củng cố lý luận về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT Công an thành phố Hồ Chí Minh tiến hành trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành.
- Làm rõ thực trạng hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2005.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài này nghiên cứu về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2005.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành. Đồng thời kết quả của luận văn còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại các trường CAND.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm góp phần giúp Công an địa phương nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH tiến hành trong phạm vi cả nước nói chung và tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên hệ thống phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự.
- Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp so sánh, phân tích, thống kê; tổng hợp;
+ Phương pháp trao đổi, tọa đàm, tham khảo ý kiến chuyên gia;
+ Phương pháp quan sát thực tế.
7. Cấu trúc của đề tài: Được chia làm 3 phần sau:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung: Gồm 3 chương
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành.
+ Chương 2: Thực trạng hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ 2001 đến tháng 6/ 2005.
+ Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích do lực lượng CSĐT tiến hành tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
- Kết luận.
- Phần phụ lục.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH DO LỰC LƯỢNG CSĐT TIẾN HÀNH.
1.1. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích.
1.1.1. Khái niệm tội phạm cố ý gây thương tích.
Trong hoạt động điều tra tội phạm, để giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác thì một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra đó là phải hiểu rõ về bản chất của hành vi phạm tội cũng như những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của loại tội phạm đó. Chính vì vậy, để đấu tranh phòng chống tội phạm cố ý gây thương tích có hiệu quả, vấn đề đầu tiên đặt ra là phải xác định rõ khái niệm cũng như những dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và loại tội phạm cố ý gây thương tích ở nước ta hiện nay càng thể hiện rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nhận thức trên.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam cho thấy: Khi nói đến tội phạm cố ý gây thương tích gây thương tích nghĩa là đề cập đến một nhóm tội danh được quy định tại các điều 104, 105, 106 của Bộ luật hình sự- 1999. cụ thể:
* Tại khoản 1, Điều 104- BLHS quy định: “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người.
Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.
Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
đ. Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Có tổ chức.
g. Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
h. Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.
i. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
k. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
* Tại khoản 1, Điều 105- BLHS quy định: “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.”
* Tại khoản 1, Điều 106- BLHS quy định: “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.”[6]
Từ các quy định trên của Bộ luật hình sự cho thấy: Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do lỗi cố ý là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác được hiểu là:
+ Gây thương tích cho người khác: Là hành vi mà người phạm tội dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể người khác làm cho người đó có những thương tích nhất định (để lại dấu vết). Việc dùng sức mạnh vất chất có thể bằng chân tay hoặc các công cụ phương tiện hỗ trợ như dao, súng, gậy.... làm cho nạn nhân mất đi một hay nhiều bộ phận trên thân thể.
+ Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Là hành vi mà người phạm tội dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể người khác làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi, không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ.
Người khác nói ở đây được hiểu là trường hợp không phải gây thiệt hại cho sức khỏe của chính bản thân mình. Nếu trường hợp gây thiệt hại cho sức khỏe của chính bản thân mình để trốn tránh nghĩa vụ phải làm thì tùy trường hợp cụ thể để có thể xem xét trách nhiệm hình sự theo tội danh khác.
+ Do lỗi cố ý: “Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”[33-132].
Người phạm tội cố ý gây thương tích thực hiện hành vi với hình thức lỗi cố ý. Tại Điều 9- BLHS quy định: “ Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.”[6]
Điều đó chứng tỏ việc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là do ý thức chủ quan của người phạm tội.
Như vậy: Tội phạm cố ý gây thương tích là một loại tội phạm hình sự, trong đó, người phạm tội có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác một cách trái pháp luật.
1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích.
Trong hoạt động điều tra hình sự, cấu thành tội phạm có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, nó vừa cho phép xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vừa cho phép phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đồng thời nó còn là cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự và định tội danh một cách chính xác, đúng pháp luật.
Như đã trình bày ở trên, khi nói đến tội cố ý gây thương tích tức là đề cập đến một nhóm tội danh cụ thể, do đó khi xem xét dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích cũng phải xem xét dấu hiệu pháp lý theo từng tội cụ thể sau:
* Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Trên cơ sở Điều 104- Bộ luật hình sự 1999, các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thể hiện như sau:
- Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm vào quyền bảo hộ về sức khỏe của con người.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Gây thương tích cho người khác;
+ Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
+ Về dấu hiệu hậu quả của tội phạm này được xác định ở mức độ thương tích, hoặc mức độ tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân từ 11% trở lên đến 30%. Nếu mức thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe từ 31% trở lên thì được coi là tình tiết định khung tăng nặng khi quyết định hình phạt. Tỷ lệ % thương tích là
kết quả giám định của Hội đồng giám định y khoa.
Ngoài ra tại Điều 104- BLHS còn quy định 10 trường hợp cụ thể từ điểm a đến điểm k khoản 1 làm cơ sở để tăng nặng khung hình phạt hoặc áp dụng trong trường hợp tỷ lệ thương tích dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k, khoản 1, Điều 104- BLHS, người có hành vi vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
- Chủ thể của tội phạm: Tội phạm được thực hiện bởi người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.
- Về hình phạt:
Tại khoản 1 (cấu thành cơ bản) quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
Trong khoản 2, quy định hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm cho trường hợp phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30 % nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a đến k khoản 1.
Trong khoản 3 quy định khung hình phạt tù từ 5 năm đến 15 năm cho trường hợp phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60 %, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1.
Trong khoản 4 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân cho trường hợp phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
* Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh .
Theo Điều 105- Bộ luật hình sự 1999, các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được thể hiện như sau:
- Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm vào quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người .
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm giống hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104-BLHS).
+ Về dấu hiệu hậu quả, điều luật quy định tỉ lệ thương tật cho nạn nhân phải từ 31% trở lên đến 60%. Nếu trên 61% thì được coi là tình tiết định khung tăng nặng trong khi quyết định hình phạt.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
+ Dấu hiệu người thực hiện hành vi trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm như:
Tình trạng đã đưa người phạm tội không thể hoàn toàn tự chủ, không thể kìm chế hành vi phạm tội của mình. Nếu người phạm tội chỉ bị kích động, sự kích động chưa mạnh thì không thỏa mãn dấu hiệu này. Việc xác định tình tiết bị kích động mạnh hay chưa mạnh cần dựa vào từng vụ án cụ thể.
Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội phải do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên đối với người phạm tội hoặc đối với người thân của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật nói chung của nạn nhân phải là nghiêm trọng. Về mức độ nghiêm trọng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể của hành vi trái pháp luật dẫn đến tình trạng thần kinh của người phạm tội bị kích động mạnh.
- Chủ thể của tội phạm: Tội phạm được thực hiện do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên.
- Về hình phạt:
Trong khoản 1 (cấu thành cơ bản) quy định khung hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm.
Trong khoản 2, quy định hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm cho các trường hợp phạm tội đối với nhiều người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.
* Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do