Quản trị nhân sự (QTNS) là công tác quản lý con người trong phạm vi nội bộ một tổ
chức, là sự đối xử của tổ chức Doanh nghiệp (DN) với người lao động. QTNS chịu trách
nhiệm về việc đưa con người vào DN giúp họ thực hiện công việc, thù lao cho sức lao động
và giải quyết các vấn đề phát sinh.
Mục tiêu cơ bản của QTNS trong DN là thu hút, lôi cuốn những người giỏi về với DN,
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao tính hiệu quả
của doanh nghiệp, động viên, thúc đẩy nhân viên, tạo điều kiện cho họ bộc lộ, phát triển và
cống hiến tài năng cho DN, giúp họ gắn bó, tận tâm, trung thành với DN
83 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự của sinh viên ngành quản trị kinh doanh ở một số trường đại học tại TP Hồ Chí MInh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
VÕ MINH TRUNG
ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ NGHỀ QUẢN TRỊ NHÂN SỰ CỦA SINH VIÊN
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI
TPHCM
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ HẠNH NGA
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN: Doanh nghiệp
ĐHMK: Đại học tài chính marketting
ĐHTĐT: Đại học Tôn Đức Thắng
ĐHVL: Đại học Văn Lang
GTTT: Giá trị tinh thần
GTVC: Giá trị vật chất
NNL: Nguồn nhân lực
QTKD: Quản trị kinh doanh
QTNL: Quản trị nhân lực
QTNNL: Quản trị nguồn nhân lực
QTNS: Quản trị nhân sự
TB: Trung bình
TBC: Trung bình chung
TH: Thứ hạng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản trị nhân sự (QTNS) là công tác quản lý con người trong phạm vi nội bộ một tổ
chức, là sự đối xử của tổ chức Doanh nghiệp (DN) với người lao động. QTNS chịu trách
nhiệm về việc đưa con người vào DN giúp họ thực hiện công việc, thù lao cho sức lao động
và giải quyết các vấn đề phát sinh.
Mục tiêu cơ bản của QTNS trong DN là thu hút, lôi cuốn những người giỏi về với DN,
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao tính hiệu quả
của doanh nghiệp, động viên, thúc đẩy nhân viên, tạo điều kiện cho họ bộc lộ, phát triển và
cống hiến tài năng cho DN, giúp họ gắn bó, tận tâm, trung thành với DN.
Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức DN, vận hành DN và quyết định sự thành
bại của DN. Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực không thể thiếu được của DN
nên QTNS là một lĩnh vực quan trọng của quản lý trong mọi tổ chức DN. Mặt khác, quản lý
các nguồn lực khác cũng sẽ không có hiệu quả nếu DN không quản lý tốt nguồn nhân lực, vì
suy cho cùng mọi hoạt động quản lý đều thực hiện bởi con người. Xét về mặt kinh tế, QTNS
giúp cho các DN khai thác các khả năng tiềm tàng, nâng cao năng suất lao động và lợi thế
cạnh tranh của DN về nguồn nhân lực. Về mặt xã hội, QTNS thể hiện quan điểm rất nhân
bản về quyền lợi của người lao động, đề cao vị thế và giá trị của người lao động, chú trọng
giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa tổ chức, DN và người lao động.
Tầm quan trọng của QTNS tăng mạnh trên toàn thế giới trong mấy thập kỷ gần đây
khi cả trình độ năng lực của nhân viên lẫn trang bị kỹ thuật ngày càng được nâng cao; khi
công việc ngày càng phức tạp, đa dạng và yêu cầu công việc ngày càng tăng; khi hầu hết các
doanh nghiệp đều phải đối đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, đặc biệt
là trong các nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam không phải là một trường hợp ngoại lệ. Quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều yếu kém trong quản lý kinh tế.
Điều này được coi như một trong những nguyên nhân quan trọng nhất cản trở kinh tế phát
triển.
Thực tế công tác quản lý nguồn nhân lực ở các DN hiện nay vẫn còn gặp rất nhiều
thách thức lớn. Khó khăn và thách thức lớn nhất đối với các DN hiện nay không phải là thiếu
vốn hay trình độ kỹ thuật mà là làm thế nào để QTNNL có hiệu quả. Đội ngũ nhân sự cao
cấp tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay rất đa dạng về độ tuổi, kinh nghiệm và trình độ,
tuy nhiên lại thiếu chuyên môn sâu về nhân sự. Có sự khác biệt lớn về thông lệ quản lý ở các
loại hình tổ chức khác nhau. Các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài đã xây dựng được một
đội ngũ có năng lực thực hiện vai trò nhân sự hiệu quả và chuyên nghiệp hơn so với các
doanh nghiệp khác. Hệ thống sẵn có và văn hoá quản lý con người từ công ty mẹ ở nước
ngoài đã được tiếp tục được phát huy ở Việt Nam. Những kinh nghiệm tốt về QTNS thường
xuất phát từ những doanh nghiệp này. Trong khi đó, cán bộ ở các công ty nhà nước có độ
tuổi cao hơn, thường có chuyên môn sâu về ngành nghề chính của công ty chứ không phải là
chuyên môn về nhân sự.
Thực tế cho thấy lâu nay, nghề nhân sự ở Việt Nam chưa được đào tạo chuyên sâu
theo hướng chuyên nghiệp. Người làm công tác nhân sự ở các DN chủ yếu từ các lĩnh vực
khác chuyển sang có chút ít kinh nghiệm hoặc được đào tạo bằng các khóa học ngắn hạn và
có nhiều ý kiến cho rằng hiện nay các chương trình Đại học chính quy mới chỉ có “vỏ” được
gọi là QTNS, nhưng vẫn chưa có “ruột” thực chất đào tạo kiến thức và kỹ năng cho các cán
bộ QTNS. Các chương trình đào tạo về QTNS chủ yếu được lồng ghép trong các chương
trình về quản trị doanh nghiệp hoặc quản trị kinh doanh, chỉ có một số ít trường đại học có
hẳn chuyên ngành về QTNS hay QTNNL.
Sinh viên ngành QTNS sẽ là những chuyên viên nhân sự, những nhà QTNS trong
tương lai. Những người sẽ chịu trách nhiệm tuyển dụng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao tính hiệu quả của doanh nghiệp. Động viên,
thúc đẩy nhân viên, tạo điều kiện cho họ bộc lộ, phát triển và cống hiến tài năng cho DN,
giúp họ gắn bó, tận tâm, trung thành với DN, tạo ra bộ mặt, bầu không khí vui tươi phấn
khởi là một công việc rất khó khăn phức tạp, vừa mang tính khoa học và nghệ thuật quản lý
con người, vừa mang tính kinh tế và nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên có thể nói QTNS là một
lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam, nên sinh viên chưa có nhiều cơ hội tiếp cận và tìm hiểu về
nó, Hơn nữa chỉ có một số ít trường đại học tuy có hẳn chuyên ngành về QTNS, nhưng theo
các chuyên gia thì các chương trình này chưa có được cái cốt lõi là QTNS theo đúng nghĩa
của nó. Việc sinh viên chọn học nghề QTNS phần nhiều mang tính thụ động khi bước vào
giai đoạn phân ngành học và chưa được tư vấn nghề nghiệp đúng nghĩa. Vì vậy việc tìm hiểu
định hướng giá trị nghề QTNS của sinh viên ngành quản trị kinh doanh, những nhà quản trị
trong tương lai sẽ phản ánh được sự định hướng và chuẩn bị của họ cho nghề nghiệp. Điều
này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm kiếm các phương pháp hợp lý hơn trong công
tác giáo dục và đào tạo nên những nhà QTNS trong tương lai, những nhân tố quan trọng
trong công cuộc phát triển kinh tế và hội nhập của đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự của sinh viên ngành quản
trị kinh doanh ở một số trường đại học tại TPHCM, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị
trong việc giáo dục giá trị nghề quản trị nhân sự và định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giá trị, định hướng giá trị, định hướng giá trị nghề
quản trị nhân sự.
3.2. Thực trạng định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự của sinh viên ngành quản trị kinh
doanh ở một số trường đại học tại TPHCM
3.3. Kiến nghị một số vấn đề về giáo dục giá trị nghề quản trị nhân sự.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên ngành quản trị kinh doanh.
5. Giả thuyết nghiên cứu
5.1. Phần lớn sinh viên ngành quản trị kinh doanh ở một số trường đại học tại TPHCM có
nhận thức, thái độ và hành vi nghiêm túc đối với nghề quản trị nhân sự.
5.2. Có sự khác biệt tương đối giữa các nhóm khách thể trong việc định hướng giá trị nghề
quản trị nhân sự.
6. Giới hạn đề tài
– Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự
trong hệ thống giá trị nhân cách sinh viên.
– Về phạm vi khảo sát: Khảo sát định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự ở một số
trường đại học có đào tạo ngành quản trị kinh doanh trong địa bàn TPHCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu tài liệu xây dựng cơ sở lý luận của đề tài, đặc biệt là các khái niệm giá trị,
định hướng giá trị, nghề nghiệp, nghề quản trị nhân sự.
7.2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia:
Xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề quản trị nhân sự để hoàn thành phần đề cương và
xây dựng phiếu khảo sát.
7.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Điều tra bằng bảng câu hỏi.
7.4. Phương pháp toán thống kê: SPSS.
Xử lý các số liệu thu được từ các phương pháp nghiên cứu trên bằng các công thức
tính phần trăm, trung bình, tương quan, kiểm nghiệm T và Anova.
8. Đóng góp của đề tài
– Đề tài góp phần làm rõ được thực trạng định hướng gía trị nghề quản trị nhân sự và
các yếu tố ảnh hưởng tới việc định hướng giá trị nghề quản trị nhân sự của sinh viên
ngành quản trị kinh doanh ở một số trường đại học tại TPHCM.
– Đưa ra một số kiến nghị trong việc giáo dục giá trị nghề quản trị nhân sự và định
hướng giá trị nghề quản trị nhân sự.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những vấn đề liên quan đến giá trị và định hướng giá tri
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên ở
Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong đó có đề cập đến vấn
đề giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của thanh niên so với thế hệ cha ông
[dẫn theo 31, tr.20].
Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh niên
của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu nghiên
cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra này đều đề cập đến về vấn đề
“định hướng giá trị của thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống” [dẫn theo 31,
tr.20].
Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế về
giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều biến đổi
đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế kỷ 20 [dẫn theo 31, tr.20].
Hơn 10 năm trở lại đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo
về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị. Các chương trình giáo dục giá trị đã được
đưa vào trong trường phổ thông và cộng đồng ở một số nước như: Indonesia, Phillipin,
Singapore, Malaysia và Thái Lan [dẫn theo 31, tr.21].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở đây đã chỉ ra
được những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng được những bộ dụng cụ
để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công trình nghiên cứu được
ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân cư.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Từ năm 1986, sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đất nước ta thực hiện
chính sách mở cửa, chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở cửa là chính sách đúng đắn
nhằm đưa Việt Nam hội nhập với cộng đồng thế giới để phát triển. Tuy vậy, chính sách mở
cửa đã và đang tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội đồng thời tác động đến con
người Việt Nam nhất là đời sống tinh thần trong đó vấn đề đạo đức, các giá trị sống của
người Việt Nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng. Cũng từ đó mà xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu của Ban Khoa Giáo Trung Ương, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung
ương, các viện nghiên cứu, các tổ chức xã hội, đoàn thể về giá trị, định hướng giá trị của con
người Việt Nam.
Năm 1991 - 1995, chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07:
“Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội”, nhiều nhánh
đề tài xuất phát từ đây đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định hướng giá trị của con người
Việt Nam:
Đề tài mã số KX - 07 - 04 do PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên
cứu: "Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" [dẫn theo 31, tr.22]. Dựa trên
những giá trị được người Việt Nam quan tâm, đề tài chỉ ra xu hướng phát triển nhân cách
người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và mở cửa.
Đề tài KX - 07 - 10 do TS. Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu: "Tìm hiểu
định hướng giá trị của thanh niên trong cơ chế thị trường".
Năm 1996, luận án phó tiến sỹ Triết học của Dương Tự Đam: “Định hướng giá trị của
thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”. Luận án đã nêu ra một số biểu
hiện đặc trưng, xu hướng phát triển và sự chuyển đổi định hướng giá trị trong sinh viên. Trên
cơ sở đó đề tài đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh
viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Cùng năm 1996, Nguyễn Thị Khoa với luận án phó tiến sỹ Tâm lý học: “Định hướng
giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay”. Đề tài đã làm sáng tỏ cơ sở lý
luận về giá trị, định hướng giá trị và nêu ra những đặc trưng và xu thế định hướng giá trị chất
lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức, từ đó xây dựng những chuẩn giá trị gia đình Việt
Nam hiện đại.
Đầu năm 2002, Đỗ Ngọc Hà với luận án tiến sỹ “Định hướng giá trị của thanh niên,
sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy
những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên cơ
sở đó xây dựng biểu định hướng giá trị của sinh viên Việt Nam.
Nhìn chung các đề tài đã tập trung nghiên cứu vấn đề giá trị và đinh hướng giá trị đã
làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị
của người Việt Nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng, trên cơ sở đó đề ra
những phương hướng và biện pháp để giúp thanh niên sinh viên hoàn thiện về mặt nhân
cách.
Ngoài những đề tài nghiên cứu, còn có một số bài viết và báo cáo về giá trị và định
hướng giá trị được đăng trên các tạp chí khoa học.
1.1.2. Những vấn đề liên quan đến nghề quản trị nhân sự
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Vào cuối thế kỷ XIX, trên thế giới chưa áp dụng định mức lao động trên cơ sở khoa
học, tất cả mọi nhân viên đều được coi là có năng lực làm việc như nhau. Trong các xí
nghiệp công nghiệp, nhân viên không muốn nâng cao năng suất lao động vì sợ bị chủ doanh
nghiệp tiếp tục nâng cao định mức. Người chủ thuê lao động và các đốc công phải dùng các
biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ và đe dọa đuổi việc nhân viên nhằm thúc ép nhân viên
làm việc tốt hơn. Lúc đó các biện pháp này được coi là hữu hiệu để quản trị nhân viên.
Phong trào quản trị trên cơ sở khoa học do Taylor khởi xướng, được nhiều nhà khoa
học khác nồng nhiệt hưởng ứng, tích cực phát triển như: Gilbreth, Gantt... đã mở đường cho
việc nghiên cứu hợp lý hóa phương pháp làm việc, xây dựng định mức lao động khoa học và
cải tiến cách thức tổ chức, quản lý xí nghiệp, các đốc công không cần phải giám sát công
nhân chặt chẽ mà công nhân vẫn phải làm việc cực lực mới đáp ứng yêu cầu của chủ. Nghiên
cứu thời gian và vận động; phân tích công việc; chuẩn bị các Bảng tiêu chuẩn công việc và
thiết lập hệ thống kích thích vật chất có hiệu quả thông qua tiền lương, tiền thưởng. Một số
phòng nhân sự của các doanh nghiệp còn thực hiện chương trình phúc lợi nhằm quan tâm
đến sức khỏe và an toàn lao động cho công nhân.
Từ giữa những năm 1930, phong trào quản trị trên cơ sở khoa học được thay thế bằng
phong trào quản trị các mối quan hệ con người. Cơ sở nền tảng của phong trào các mối quan
hệ con người là kết quả thành công của các thí nghiệm Hawthone và sự phát triển của phong
trào công đoàn. Nghiên cứu Hawthone khởi đầu năm 1924 và kéo dài nhiều năm nhằm
nghiên cứu các ảnh hưởng của điều kiện vệ sinh lao động như: Ánh sáng nơi làm việc, độ dài
thời gian làm việc, chu kỳ làm việc nghỉ ngơi; các ảnh hưởng của nhóm lên các cá nhân,
phong trào lãnh đạo và sự thoải mái của công nhân tại nơi làm việc đối với năng suất lao
động. Kết quả cho thấy không chỉ có các thiết kế mẫu công việc, cách trả lương, thưởng mà
cả các yếu tố tâm sinh lý cũng ảnh hưởng đến năng suất lao động. Các yếu tố của điều kiện
môi trường làm việc như: Quan hệ nhóm, phong cách lãnh đạo... đã tác động mạnh mẽ đến
tình cảm, nhiệt tình của người lao động và là nguồn gốc nâng cao hiệu quả làm việc.
Từ cuối những năm 1970, Vấn đề quản trị con người trong tổ chức, doanh nghiệp
không còn đơn thuần chỉ là quản trị hành chính nhân viên. Tầm quan trọng của việc phối hợp
các chính sách và thực tiễn QTNS được nhấn mạnh. Nhiệm vụ quản trị con người là của tất
cả các quản trị gia, không còn của riêng trưởng phòng nhân sự hay phòng tổ chức cán bộ như
trước đây. Việc cần thiết phải đặt đúng người đúng việc là vấn đề quan trọng nhằm phối hợp
việc quản trị con người với mục tiêu phát triển của tổ chức và của doanh nghiệp. Con người
không chỉ đơn thuần là một yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh mà là một nguồn tài sản
quý báu của tổ chức và của doanh nghiệp.
– Nhân viên cần được đầu tư thỏa đáng để phát triển các năng lực riêng nhằm thỏa mãn các
nhu cầu cá nhân, đồng thời tạo ra năng suất lao động, hiệu quả làm việc cao và đóng góp
tốt nhất cho tổ chức.
– Các chính sách, chương trình và thực tiễn quản trị cần được thiết lập và thực hiện sao cho
có thể thỏa mãn cả nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của nhân viên.
– Môi trường làm việc cần được thiết lập sao cho có thể kích thích nhân viên phát triển và
sử dụng tối đa các kỹ năng của mình.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, việc nghiên cứu, đào tạo về lĩnh
vực quản lý con người trong doanh nghiệp được thực hiện thông qua các môn: Tổ chức lao
động theo khoa học, định mức lao động và tiền lương. Mặc dù có sự khác biệt lớn về lịch sử
phát triển và kinh tế, thực tiễn quản trị nhân sự của Việt Nam trong thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung cũng tương tự như thực tiễn quản trị nhân sự của các nước Đông Âu, Liên Xô cũ và
Trung Quốc. Những thành phần cơ bản của quản trị nhân sự như: Chế độ tuyển dụng, đào tạo
và phát triển, lương thưởng, thăng tiến, quan hệ lao động,... đều là các chính sách chung của
Nhà nước và hầu như không liên quan gì đến thực tiễn hoạt động trong từng doanh nghiệp cụ
thể.
Trong quá trình đổi mới kinh tế, các yếu tố mới của nền kinh tế thị trường dần thay thế
cho các nguyên tắc, thủ tục quản lý cũ. Sự can thiệp của Nhà nước vào trong hoạt động của
các doanh nghiệp giảm dần, một phương thức quản lý mới và một môi trường mới cho quản
trị con người trong các doanh nghiệp được hình thành. Đã có một số nghiên cứu của các nhà
khoa học trong nước trong nước về lĩnh vực “quản trị nhân sự” như: TS. Trần Thị Kim Dung
với cuốn “Quản trị nhân nguồn nhân lực” [3] cho rằng, trong một nền kinh tế chuyển đổi như
Việt Nam, nơi trình độ công nghệ, kỹ thuật còn ở mức thấp, kinh tế chưa ổn định và nhà
nước chủ trương “quá trình phát triển phải thực hiện bằng con người và vì con người” do vậy
việc QTNNL là hệ thống các triết lý, chính sách và hoạt động về thu hút, đào tạo – phát triển
và duy trì con người của một tổ chức nhằm đạt kết tối ưu cho cả tổ chức lẫn nhân viên.
Theo Hai tác giả TS Nguyễn Ngọc Quân, Ths. Nguyễn Vân Điềm, Trong “Giáo trình
quản trị nhân lực”[21] khi đề cập đến các hoạt động chủ yếu của quản trị nhân sự, các tác giả
thống nhất chia chúng theo ba chức năng chủ yếu là: nhóm chức năng thu hút nguồn nhân
lực, nhóm chức năng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và nhóm chức năng duy trì nguồn
nhân lực.
Tóm lại vấn đề vấn đề về QTNS được nhiều tác giả nghiên cứu, nhìn chung các tác giả
cho rằng QTNS là một trong những chức năng cơ bản của quá trình quản lý. Việc xác định
nguồn nhân sự, vấn đề tuyển chọn, sắp xếp, đề bạt, đào tạo, phát triển và đánh giá nhân
viênlà nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý. Mặc dù các phân tích được tiến hành từ nhiều
góc độ khác nhau, nhưng tất cả đều có chung mục đích nghiên cứu là nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc quản lý nhân sự trong tổ chức, doanh nghiệp.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới quản trị nhân sự, nhưng tác
giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào nói về vấn đề nghề quản trị nhân sự và định hướng giá trị
nghề quản trị nhân sự. Tuy nhiên sự tham khảo các kết quả nghiên cứu của các tác giả có ý
nghĩa khoa học rất quan trọng, giúp ích rất nhiều cho luận văn này trong quá trình nghiên
cứu định hướng giá trị ngh