Đối với NHTM hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng thường
chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và tạo ra hơn 2/3 tổng thu nhập của hầu hết các
NHTM. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong chiến lược kinh doanh của mình,
mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Tuy
nhiên, không phải quan hệ tín dụng nào cũng mang lại lợi ích và lợi nhuận cho ngân hàng.
Bởi bên trong lợi ích ấy chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể lường trước hoặc không lường
trước được. Hậu quả của những rủi ro đó là sự gia tăng về chi phí, hạn chế quy mô tín dụng,
gây ra thiệt hại về tài chính, hoặc có thể trầm trọng hơn đó là sự mất uy tín của cả ngân hàng
và khách hàng, gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của nền
kinh tế. Do đó, việc xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả luôn gắn liền với việc
xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa, xử lý RRTD một cách hữu hiệu. Vì vậy, công
tác quản lý RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Việc giảm thiểu rủi ro và
tổn thất trong hoạt động tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng tới
trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM.
Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức,
cơ chế điều hành và các nghiệp vụ trong toàn hệ thống thống ngân hàng Việt Nam, hoạt
động tín dụng của các NHTM ở nước đã có những thay đổi lớn từ trong tư duy, nhận thức
đến hành động của cả nhà quản lý cấp cao ngân hàng đến các nhân viên tín dụng. Việc cấp
tín dụng trước đây của các NHTM chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và xử lý tài sản đảm
bảo để thu hồi nợ vay khi rủi ro xảy ra, thì nay đã dần chuyển sang cho vay chủ yếu dựa
trên cơ sở đánh giá uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng và áp dụng các biện pháp giám
sát phòng ngừa, xử lý rủi ro mà các NHTM trên thế giới đã và đang áp dụng. Vì vậy, dư nợ
của các NHTM ngày càng mở rộng, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên.
109 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh Thăng Bình
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với NHTM hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng thường
chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và tạo ra hơn 2/3 tổng thu nhập của hầu hết các
NHTM. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong chiến lược kinh doanh của mình,
mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Tuy
nhiên, không phải quan hệ tín dụng nào cũng mang lại lợi ích và lợi nhuận cho ngân hàng.
Bởi bên trong lợi ích ấy chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể lường trước hoặc không lường
trước được. Hậu quả của những rủi ro đó là sự gia tăng về chi phí, hạn chế quy mô tín dụng,
gây ra thiệt hại về tài chính, hoặc có thể trầm trọng hơn đó là sự mất uy tín của cả ngân hàng
và khách hàng, gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của nền
kinh tế. Do đó, việc xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả luôn gắn liền với việc
xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa, xử lý RRTD một cách hữu hiệu. Vì vậy, công
tác quản lý RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Việc giảm thiểu rủi ro và
tổn thất trong hoạt động tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng tới
trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM.
Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức,
cơ chế điều hành và các nghiệp vụ trong toàn hệ thống thống ngân hàng Việt Nam, hoạt
động tín dụng của các NHTM ở nước đã có những thay đổi lớn từ trong tư duy, nhận thức
đến hành động của cả nhà quản lý cấp cao ngân hàng đến các nhân viên tín dụng. Việc cấp
tín dụng trước đây của các NHTM chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và xử lý tài sản đảm
bảo để thu hồi nợ vay khi rủi ro xảy ra, thì nay đã dần chuyển sang cho vay chủ yếu dựa
trên cơ sở đánh giá uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng và áp dụng các biện pháp giám
sát phòng ngừa, xử lý rủi ro mà các NHTM trên thế giới đã và đang áp dụng. Vì vậy, dư nợ
của các NHTM ngày càng mở rộng, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên.
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình không nằm ngoài xu hướng đổi mới
chung đó, tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 25%, đối tượng cho vay của ngân hàng ngày
càng mở rộng, nhiều ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt mới xuất hiện trên địa bàn đã được
ngân hàng tiếp cận để mở rộng cho vay. RRTD ngày càng giảm thấp, nợ quá hạn và nợ khó
đòi được kiểm soát. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng
mạnh mẽ, hoạt động quản lý RRTD của chi nhánh Thăng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế, chưa tiếp cận được các phương pháp quản lý RRTD của ngân hàng hiện đại. Chính vì
thế, chất lượng của các khoản mục cho vay chưa cao, nguy cơ rủi ro tiềm ẩn của các khoản
mục tín dụng luôn đe doạ ngân hàng, nợ quá hạn còn phát sinh còn ở mức cao. Chính sự e
ngại rủi ro làm cho việc mở rộng quy mô tín dụng thường gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc
nghiên cứu giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT
chi nhánh Thăng Bình là cấp thiết và luôn có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ
bản của việc lựa chọn đề tài: “Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, hệ thống
ngân hàng nước ta được chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang hệ thống ngân hàng 2
cấp, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và kinh doanh tín dụng nói riêng được xác
lập và phát triển. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về rủi ro TDNH và quản lý rủi
ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trong số đó có một số công trình đáng chú ý sau:
- “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy
phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997). Luận văn thạc sĩ Kinh tế
của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999). Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ
Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Thái Bình” (2002).
Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng Công thương
Việt Nam” (2004), Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Mai Văn Hoạt. Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Nâng cao chất lượng tín dụng tại sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam-
Thực trạng và giải pháp” (2005). Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Loan, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về rủi ro TDNH, về phòng ngừa
và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Nhưng cho đến nay, chưa có công
trình nào nghiên cứu về RRTD và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại
NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về rủi ro TDNH và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM, đề xuất
các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh
Thăng Bình.
Từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về RRTD và hạn chế RRTD của NHTM.
- Đánh giá thực trạng về RRTD và công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt
động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra
những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác phòng ngừa, hạn chế RRTD
và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động
tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM và
công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.
Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như:
Phép biện chứng của Mác xít
Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp mô hình hoá, so sánh, đối chiếu
Một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá được các vấn đề lý luận cơ bản về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt
động tín dụng của NHTM.
- Đánh giá thực trạng về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của
NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua, đồng thời phân tích những kết
quả đạt, những tồn tại, hạn chế trong việc hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và những
nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của
NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kiến nghị, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
một số vấn đề về rủi ro tín dụng và hạn chế
rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. Một số vấn đề về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Quan niệm về rủi ro và rủi ro trong kinh doanh
Trong cuộc sống hàng ngày, rủi ro có thể xuất hiện trên mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi
nơi và không ngoại trừ một ai. Khi xã hội loài người càng phát triển, hoạt động của con
người ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì rủi ro cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Trong kinh doanh, mối nguy cơ rủi ro là rất lớn vì các nhà kinh doanh không những
gánh chịu các rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh,... mà còn gánh chịu cả về sự
biến động của giá cả, nợ nần, thua lỗ. Vì vậy, vấn đề rủi ro rất được nhiều nhà kinh tế quan
tâm nghiên cứu.
Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống
nhất thế nào là rủi ro. Các trường phái và các tác giả đã đưa ra định nghĩa khác nhau về rủi
ro. Nhìn chung có 2 quan niệm về rủi ro như sau:
* Theo quan niệm truyền thống, có một số định nghĩa về rủi ro như sau:
- Theo Từ điển tiếng Việt do trung tâm từ điển học Hà Nội xuất bản 1995 thì “Rủi ro
là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến”.
- Theo giáo sư Nguyễn Lân: “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may mắn” [25,
tr.25].
- Theo tiến sĩ Hồ Diệu: “Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút về lợi
nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến” [25, tr.25].
Như vậy, theo quan niệm truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những điều không
may mắn xảy ra cho con người, làm mất mát, thiệt hại về tài sản hay phát sinh một khoản
nợ. Quan niệm này cho rằng rủi ro chỉ gắn liền với mất mát, thiệt hại hay khó khăn.
* Theo quan niệm hiện đại, có một số định nghĩa điển hình về rủi ro như sau:
- Theo Frank Knight thì “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”.
- Theo Allan Willett “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những
biến cố không mong đợi”.
- Theo Irving Preffer “Rủi ro là tổng hợp những ngẫu nhiên có thể đo lường được
bằng xác suất”.
Như vậy, theo quan niệm hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Quan
niệm này cho rằng rủi ro có thể mang đến tổn thất, mất mát, nguy hiểm cho con người
nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. Vì vậy, có thể nói, rủi ro vừa mang tính tích
cực, vừa mang tính tiêu cực.
* Trong kinh doanh người ta thường đề cập đến 2 khái niệm rủi ro sau:
- Rủi ro thuần túy là rủi ro chỉ mang lại những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm như hỏa
hoạn, trộm cắp, tai nạn,..., làm phát sinh một khoản chi phí để bù đắp thiệt hại. Vì vậy, loại
rủi ro này cần phải có biện pháp phòng tránh hoặc hạn chế.
- Rủi ro suy tính (hay theo lý thuyết của A.M.Mowbray Blanchad Williams còn gọi
là rủi ro mang tính đầu cơ) là rủi ro mà trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn với
những nguy cơ gây ra tổn thất, loại rủi ro này là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh và
có tính hấp dẫn của nó.
Để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, người ta thường phân
loại rủi ro theo nguồn rủi ro (theo nguyên nhân), có những nguồn rủi ro như sau:
+ Rủi ro do môi trường thiên nhiên. Nhóm rủi ro này do các hiện tượng thiên nhiên
như động đất, núi lửa, bão lũ,..., gây ra. Những rủi ro này thường dẫn đến những thiệt hại to
lớn về người và tài sản.
+ Rủi ro do môi trường xã hội. Nhóm rủi ro này do sự thay đổi các chuẩn mực, hành
vi con người, cấu trúc xã hội, các định chế,... gây ra.
+ Rủi ro do môi trường văn hóa. Là những rủi ro do thiếu hiểu biết về phong tục tập
quán, tín ngưỡng, lối sống, đạo đức của dân tộc, từ đó có cách hành xử không phù hợp.
+ Rủi ro do môi trường chính trị. Nhóm rủi ro này do sự bất ổn của môi trường chính
trị. Môi trường chính trị ổn định sẽ giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp.
+ Rủi ro do môi trường luật pháp. Luật pháp đề ra các chuẩn mực mà mọi người phải
thực hiện, tuy nhiên, xã hội luôn phát triển, nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với
bước tiến của xã hội thì sẽ gây ra rủi ro. Ngược lại, nếu luật pháp thay đổi nhiều, không ổn
định cũng gây ra khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.
+ Rủi ro do môi trường kinh tế. Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường kinh tế như
tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, lạm phát, suy thoái kinh tế,..., đều ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, gây ra những rủi ro, bất ổn.
+ Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức. Trong quá trình hoạt động của mọi tổ
chức, có thể phát sinh nhiều rủi ro. Rủi ro có thể phát sinh ở nhiều lĩnh vực như công nghệ,
tổ chức bộ máy, văn hóa tổ chức, tuyển dụng, đãi ngộ, quan hệ khách hàng, đối thủ cạnh
tranh, tâm lý của người lãnh đạo.
+ Rủi ro do nhận thức của con người. Một khi nhận diện và phân tích không đúng vấn
đề thì tất yếu sẽ có kết luận và quyết định sai.
Tóm lại: Trong kinh doanh, rủi ro được hiểu là sự bất trắc có thể đo lường được, nó có
thể mang đến những tổn thất, thiệt hại, nguy hiểm, hoặc làm mất đi những cơ hội sinh lợi
nhưng cũng có thể đem đến những lợi ích, những cơ hội thuận lợi. Vì vậy, việc nghiên cứu
rủi ro để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực và tìm kiếm những cơ hội
thuận lợi trong kinh doanh là điều hết sức cần thiết trong điều kiện kinh doanh ngày nay.
1.1.1.2. Quan niệm về rủi ro tín dụng của NHTM
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn có tiềm ẩn nguy cơ gặp phải rủi ro cao. Trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, rủi ro ngân hàng thường ít được đề cập đến. Khi rủi ro
xảy ra, Nhà nước thường sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn chặn như phát hành
tiền, không cho các doanh nghiệp, cá nhân rút tiền... Trong nền kinh tế thị trường, hiện
tượng mất khả năng thanh toán ở các doanh nghiệp xảy ra thường xuyên, việc cho vay
không thu được nợ, quản lý ngân hàng không chặt chẽ, các ngân hàng bị thua lỗ, khách hàng
đến rút tiền ào ạt, mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản là hiện tượng tất yếu.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là biến cố không mong đợi xảy ra gây
thiệt hại, mất mát về tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Theo các
chuyên gia trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thì rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
bao gồm những loại sau:
- Rủi ro do bị ứ đọng vốn. Nguồn vốn hoạt động của NHTM chủ yếu là từ vốn huy
động của công chúng. Khi vốn huy động của NHTM không chuyển sang được các tài sản có
sinh lợi, từ đó không có lãi để trang trải lãi vay cho người gởi, các chi phí nghiệp vụ, quản
lý... gây ra thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Rủi ro này thường gặp phải
trong trường hợp nền kinh tế không ổn định, ngân hàng không có tín nhiệm đối với khách
hàng, hay do cơ cấu lãi suất không phù hợp.
- Rủi ro do thiếu vốn. Trường hợp ngân hàng không đủ ngân quỹ, các tài sản có lưu
hoạt, cùng với việc gia tăng vốn từ các nguồn vốn khác khiến nó không đáp ứng được các
nghĩa vụ chi trả và các ràng buộc về tài chính. Nguyên nhân của rủi ro này là do việc hoán
chuyển kỳ hạn nguồn vốn và sử dụng vốn, do sự biến động mang tính chất thời vụ của
người cần vay và người cần gởi, những biến động mang tính chất bất thường không dự đoán
được. Từ đó, làm cho ngân hàng không nhận được tiền gởi, không thu được hay không mở
rộng được các tài sản nợ để thực hiện các nghĩa vụ trên, từ đó gây mất lòng tin cho khách
hàng, làm cho nhu cầu rút tiền ngày càng gia tăng. Để đối phó với trường hợp này, ngân
hàng buộc phải thu hồi các khoản vay chưa đến hạn, bán lại các chứng khoán hay vay nóng
các ngân hàng khác,... Tất cả những hoạt động này gây thiệt hại lớn cho ngân hàng, nếu
trầm trọng, sẽ đưa ngân hàng đến bên bờ vực phá sản.
- Rủi ro lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất của các khoản tiền vay được
xem là giá cả của món vay, lãi suất được hình thành và chịu tác động của các quy luật kinh
tế khách quan, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị,... Vì vậy, lãi suất luôn biến động làm
thay đổi tiền lãi, thu nhập của ngân hàng, có thể làm cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng bị thua lỗ.
- Rủi ro hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của 1 đồng tiền tính ra một đồng tiền khác.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, sự biến động tỷ giá sẽ làm cho tài sản,
thu nhập của ngân hàng bị đe dọa khi ngân hàng sở hữu chứng khoán bằng ngoại tệ hay cho
vay bằng ngoại tệ.
- Rủi ro thuần túy. Đây là những rủi ro không lường trước được, liên quan đến thiên
tai, hỏa hoạn, động đất,... và liên quan đến đạo đức như lừa đảo, trộm cắp làm thiệt hại hay
phá hủy tài sản của ngân hàng.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán. Đây là rủi ro riêng có của ngân hàng, nó liên quan
đến sự sống còn của doanh nghiệp ngân hàng. Rủi ro này thường là hậu quả của một hay
nhiều rủi ro trên mà ngân hàng không lường được. Khi vốn tự có của ngân hàng không bù
đắp được các khoản mất mát, thiệt hại thì sẽ dẫn đến vỡ nợ.
- Rủi ro tín dụng. Khoản mục tín dụng thường chiếm tỷ trọng chủ yếu, khoảng từ 1/2
đến 2/3 trong tổng tài sản có sinh lợi của ngân hàng và là khoản mục tạo ra nguồn thu nhập
chủ yếu (hơn 2/3) cho ngân hàng, nhưng cũng lại là khoản mục chứa đựng nguy cơ rủi ro
cao và một khi xảy ra thì gây thiệt hại khá lớn cho các ngân hàng.
Để hiểu rõ về RRTD, chúng ta phân tích định nghĩa tín dụng của Mác. Theo Mác:
Tín dụng là sự chuyển nhượng lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau 1
thời gian nhất định thu lại được lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Mác cho rằng:
Tiền chẳng qua chỉ rời tay người sở hữu trong 1 thời gian và chẳng qua chỉ tạm
thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Cho nên tiền
không phải được bỏ ra để thanh toán cũng không tự đem bán đi, nó chỉ đem cho
vay, tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát với 1
kỳ hạn nhất định. Do vậy, một nguyên tắc cơ bản trong quan hệ tín dụng là
nguyên tắc hoàn trả: Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn.
Nếu vi phạm nguyên tắc này thì ngân hàng gặp phải rủi ro [10, tr.462].
Như vậy, có thể hiểu RRTD là việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng mà các
khoản thu nhập dự tính mang lại từ tài sản có sinh lợi của ngân hàng không được hoàn trả
đầy đủ cả về số lượng và thời hạn làm cho các ngân hàng luôn ở trong tình trạng đe dọa
thua lỗ, phá sản. Hay nói cách khác, RRTD là những tổn thất tài sản khi bên vay (khách
hàng) không có khả năng thanh toán khoản vay theo đúng trong hợp đồng tín dụng đã thỏa
thuận với ngân hàng.
Tóm lại, hoạt động của ngân hàng rất mạo hiểm và nguy cơ gặp phải rủi ro cao, do
vậy, cần thiết phải nhìn nhận đúng rủi ro, đặc biệt là RRTD và có biện pháp phòng ngừa là
công việc không thể thiếu trong hoạt động hàng ngày của các ngân hàng hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Đặc điểm về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
- Rủi ro tín dụng của NHTM là loại rủi ro mang tính gián tiếp. Với chức năng trung
gian tài chính, NHTM đứng giữa người đi vay và người cho vay để kiếm lợi về mình. Hoạt
động kinh doanh của NHTM có thể được mô tả như sau:
Đối với người cho vay (người thừa vốn). NHTM tạo điều kiện để thu hút các khoản
tiền nhỏ lẻ, nhàn rỗi ở các nơi trong nền kinh tế. Để thực hiện được, ngân hàng cần phải tạo
ra nhiều điều kiện thuận lợi, dể dàng trong việc rút và gởi tiền của các đối tượng này như đa
dạng các hình thức huy động, đa dạng các thời hạn gởi, cung cấp các dịch vụ tiện ích, sử
dụng các công cụ lãi suất hay các hình thức khuyến khích bằng vật chất khác. Trong mối
quan hệ này, khách hàng với tư cách là người ủy nhiệm cho ngân hàng bảo quản tiền của
mình, khách hàng không mất quyền sở hữu, ngân hàng phải đảm bảo nhu cầu rút tiền và các
điều kiện khác cho khách hàng như đã thỏa thuận ban đầu.
Đối với người đi vay (thiếu vốn). NHTM sau khi đã thu hút được các nguồn vốn sẽ
đem cho những người có nhu cầu về tiền trong nền kinh tế sử dụng vào các mục đích như
đầu tư vào SXKD hay tiêu dùng. Để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi, ngân hàng phải thu
ở người đi vay một khoảng lãi với lãi suất lớn hơn lãi suất trả cho người gởi.
Như vậy, với hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy
động bên ngoài để cho vay, quy mô của nguồn vốn huy động lớn hay bé sẽ quyết định quy
mô kinh doanh và lợi nhuận mang lại cho ngân hàng. Nói cách khác ngân hàng sử dụng
nguồn vốn của người khác cho người khác vay nhằm kiếm lời cho mình, mà v